Đảng Cộng sản Việt Nam
Tổng bí thư
|
Nguyễn Phú Trọng
|
Thành lập
|
3 tháng 2, 1930
|
Trụ sở
|
Quận Ba Đình, Hà Nội
|
Báo chính thức
|
Báo Nhân dân
|
Tổ chức thanh niên
|
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh
|
Thành viên (2006)
|
3,1 triệu
|
Hệ tư tưởng/
vị thế chính trị
|
Chủ nghĩa Marx-Lenin; Tư tưởng Hồ Chí Minh; Chủ nghĩa dân tộc
|
Trang web
|
Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam
|
Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền tại Việt Nam hiện nay theo Hiến pháp (bản sửa đổi 1992), đồng thời cũng là đảng duy nhất được phép hoạt động. Theo Cương lĩnh và Điều lệ chính thức được công bố, Đảng cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Marx-Lenin (Marxism-Leninism) và Tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng. Trên thực tế, chủ nghĩa dân tộc, một số yếu tố tích cực của chủ nghĩa tư bản và cả một vài yếu tố có tính truyền thống của ý thức hệ phong kiến cũng có những ảnh hưởng nhất định. Tại Việt Nam, trong các ngữ cảnh không chính thức, các phương tiện truyền thông, các nhà lãnh đạo, và đại bộ phận người dân thường dùng một từ "Đảng" (hoặc "Đảng ta") để nói về Đảng Cộng sản Việt Nam.
Vai trò
Điều 4 của Hiến pháp Việt Nam (1992, sửa đổi) khẳng định vai trò lãnh đạo tuyệt đối của Đảng lên Nhà nước và xã hội:Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Cương lĩnh chính trị
Cương lĩnh chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) là văn bản trình bày tóm tắt mục tiêu, đường lối, nhiệm vụ và phương pháp của đảng này. Cho đến nay, ĐCSVN có hai bộ cương lĩnh.
Cương lĩnh 2/1930
Ngay trong hội nghị thành lập đảng tổ chức vào tháng 2 năm 1930 tổ chức tại Hương Cảng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua bộ cương lĩnh đầu tiên. Do địa vị pháp lý không được công nhận và phải hoạt động bí mật, nên cương lĩnh đầu tiên được soạn ở mức vắn tắt để cho đảng viên dễ nhớ. Cương lĩnh đầu tiên hay còn gọi Cương lĩnh năm 1930 bao gồm các tài liệu: Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt đều do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Đến tháng 10 năm 1930, cương lĩnh đầu tiên được bổ sung thêm tài liệu Luận cương cách mạng tư sản dân quyền do Trần Phú soạn thảo. Trong Cương lĩnh thứ nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam tuyên bố sẽ làm cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng ruộng đất (cương lĩnh dùng cách gọi tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng), cụ thể là phổ biến khẩu hiệu "Việt Nam tự do", đấu tranh và xây dựng một xã hội tự do tổ chức, nam nữ bình quyền, phổ cập giáo dục, đánh đổ thực dân Pháp và chế độ phong kiến, xây dựng chính phủ công nông binh, thành lập quân đội của giai cấp công nhân và nông dân, tịch thu sản nghiệp của tư bản thực dân Pháp, lấy ruộng đất của đế quốc chia cho dân cày nghèo,... Chính cương vắn tắt ghi rõ lực lượng tư bản người Việt không thuộc phe đế quốc, còn Chương trình tóm tắt tuyên bố rằng Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ lôi kéo tiểu tư sản, trí thức, trung nông, phú nông, tư sản và tư sản bậc trung về phe mình.Cách mạng việt Nam còn là một bộ phận cách mạng thế giớiÃĨỪ
Cương lĩnh 1991
Năm 1991, tại Đại hội VII của đảng, ĐCSVN thông qua cương lĩnh thứ hai của mình, gọi là Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (gọi tắt là Cương lĩnh 1991). Cương lĩnh 1991 đã tổng kết kinh nghiệm thực hiện cương lĩnh năm 1930, từ đó tuyên bố ĐCSVN sẽ:
"Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội",
Xác định "sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, vì nhân dân",
"Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết",
"Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế",
Xác định "sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng Việt Nam".
Cương lĩnh 1991 và các văn kiện bổ sung sau này khẳng định sẽ lãnh đạo Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản, xây dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa có 8 đặc trưng:
"Là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh",
"Do nhân dân làm chủ",
"Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất",
"Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc",
"Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện",
"Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ",
"Có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản",
"Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới".
Cương lĩnh 1991 và các văn kiện bổ sung sau này đề ra 8 phương hướng cơ bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là:
"Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa",
"Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa",
"Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đạm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội",
"Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc",
"Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân",
"Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh",
"Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia",
"Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế".
Hệ tư tưởng và đường lối
Đảng Cộng sản thành lập năm 1930 là một phân bộ của Quốc tế Cộng sản, theo chủ nghĩa Marx- Lenin. Theo Điều lệ Đảng năm 1935 "Đảng Cộng sản Đông Dương, đội tiền phong duy nhất của vô sản giai cấp, tranh đấu để thu phục đa số quần chúng vô sản, lãnh đạo nông dân lao động và tất thảy quần chúng lao động khác, chỉ huy họ làm cách mạng phản đế và điền địa (mưu cho Đông Dương được hoàn toàn độc lập, dân cày được ruộng đất, các dân tộc thiểu số được giải phóng), lập chính quyền Xôviết công nông binh, đặng dự bị điều kiện tranh đấu thực hiện vô sản chuyên chính, kiến thiết xã hội chủ nghĩa là thời kỳ đầu của cộng sản chủ nghĩa theo chương trình của Quốc tế Cộng sản". Nguyên tắc tổ chức của Đảng là dân chủ tập trung.
Điều lệ Đảng năm 1951 xác định Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam. Mục đích của Đảng là phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để thực hiện tự do, hạnh phúc cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động và tất cả các dân tộc đa số, thiểu số ở Việt Nam.
Đảng Lao động Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác -Lênin kết hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng. Đảng Lao động Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc dân chủ tập trung. Chính cương của Đảng năm 1951 xác định: Đảng Lao động nhằm hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, xoá bỏ di tích phong kiến và nửa phong kiến, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, làm cho nước Việt Nam độc lập và thống nhất, dân chủ tự do, phú cường và tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Tại Đại hội III năm 1960 nghị quyết xác định Đảng lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam, là đội tiền phong có tổ chức và là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân. Đảng gồm những người giác ngộ tiên tiến, gương mẫu, dũng cảm và hy sinh nhất trong giai cấp công nhân, trong nông dân lao động, trí thức cách mạng và các tầng lớp nhân dân lao động khác, tự nguyện đứng trong hàng ngũ Đảng mà phấn đấu. Đảng đại biểu quyền lợi của giai cấp công nhân, đồng thời đại biểu quyền lợi của nhân dân lao động và quyền lợi của dân tộc. Mục đích của Đảng là hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam.
Đảng lao động Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng. Đảng tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
Cương lĩnh của đảng năm 1991 xác định: Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.
Nghị quyết của đảng cũng nêu rõ: Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của dân tộc và của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan và thực tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân.
Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam dân chủ, giàu mạnh theo con đường xã hội chủ nghĩa và cuối cùng là thực hiện lý tưởng cộng sản chủ nghĩa.
Hình thành và các hoạt động đầu tiên
Đảng Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc triệu tập các đại biểu cộng sản Việt Nam họp từ ngày 6 tháng 1 năm 1930 [4] đến ngày 8 tháng 2 năm 1930 tại Hương Cảng, trên cơ sở thống nhất ba tổ chức cộng sản tại Đông Dương (Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng; thành viên từ một nhóm thứ ba tên là Đông Dương Cộng sản Liên đoàn không kịp có mặt). Hội nghị hợp nhất này diễn ra tại căn nhà của một công nhân ở bán đảo Cửu Long (Kowloon) từ ngày 6 tháng 1 đến ngày 8 tháng 2 năm 1930, đúng vào dịp Tết năm Canh Ngọ. Tham dự Hội nghị có 2 đại biểu Đông Dương Cộng sản Đảng (Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh), 2 đại biểu An Nam Cộng sản Đảng (Nguyễn Thiệu và Châu Văn Liêm) và 3 đại biểu ở nước ngoài (có Nguyễn Ái Quốc, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, đại biểu của Quốc tế Cộng sản). Hội nghị quyết định thành lập một tổ chức cộng sản duy nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua một số văn kiện quan trọng như: Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng, Lời kêu gọi. Ngày 24 tháng 2 năm 1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn chính thức gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương, họp Hội nghị lần thứ nhất tại Hồng Kông từ ngày 14 đến 31 tháng 10 năm 1930, tên của đảng được đổi thành Đảng Cộng sản Đông Dương theo yêu cầu của Quốc tế thứ ba (Quốc tế Cộng sản) và Trần Phú được bầu làm Tổng Bí thư đầu tiên.
Vừa ra đời, Đảng đã lãnh đạo phong trào nổi dậy 1930-1931, nổi bật là Xô-viết Nghệ Tĩnh. Phong trào này bị thất bại và Đảng Cộng sản Đông Dương bị tổn thất nặng nề vì khủng bố trắng của Pháp.
Năm 1935, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ I được bí mật tổ chức tại Ma Cao do Hà Huy Tập chủ trì nhằm củng cố lại tổ chức đảng, thông qua các điều lệ, bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá I gồm 13 ủy viên.
Đồng thời, một đại hội của Cộng sản Quốc tế thứ ba tại Moskva đã thông qua chính sách dùng mặt trận dân tộc chống phát xít và chỉ đạo những phong trào cộng sản trên thế giới hợp tác với những lực lượng chống phát xít bất kể đường lối của những lực lượng này có theo chủ nghĩa xã hội hay không để bảo vệ hòa bình chứ chưa đặt nhiệm vụ trước mắt là lật đổ chủ nghĩa tư bản. Việc này đòi hỏi Đảng Cộng sản Đông Dương phải xem các chính đảng dân tộc tại Đông Dương là đồng minh. Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 7 năm 1936 do Lê Hồng Phong chủ trì tổ chức tại Thượng Hải, Đảng đã tạm bỏ khẩu hiệu "đánh đổ đế quốc Pháp" và "tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho dân cày" mà lập Mặt trận Thống nhất Nhân dân Phản đế Đông Dương. Tháng 3 năm 1938, Hội nghị Trung ương do Hà Huy Tập chủ trì họp ở Hóc Môn, Sài Gòn đã đổi tên Mặt trận là Mặt trận dân chủ thống nhất Đông Dương.
Khi Thế chiến thứ hai bùng nổ, chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương lại đàn áp mạnh tay, Đảng đã chuyển hướng, coi giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu. Tháng 3 năm 1939, Đảng ra bản Tuyên ngôn của Đảng cộng sản Đông Dương đối với thời cuộc. Tháng 11 năm 1939 Hội nghị Trung ương đảng họp tại Hóc Môn, Sài Gòn do Nguyễn Văn Cừ chủ trì đã thành lập Mặt trận Dân tộc Thống nhất Phản đế Đông Dương và Hội nghị Trung ương tháng 5 năm 1941 do Nguyễn Ái Quốc chủ trì họp tại Cao Bằng lập ra Mặt trận Việt Minh. Thông qua mặt trận này, Đảng đã lãnh đạo nhân dân giành chính quyền tại Việt Nam, được biết đến với tên gọi Cách mạng tháng Tám.
Ngày 11 tháng 11 năm 1945 Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán để giấu sự liên hệ cộng sản với nhà nước mới thành lập, lấy tên gọi mới là Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương, mọi hoạt động công khai của đảng từ đây đều thông qua Mặt trận Việt Minh. Song trên thực tế, đảng vẫn hoạt động và chỉ đạo công cuộc kháng chiến.
Sau này, Đại hội Đảng lần thứ III (tháng 9 năm 1960) quyết định lấy ngày 3 tháng 2 hằng năm là ngày kỉ niệm thành lập Đảng
Cầm quyền tại miền Bắc trước thống nhất
Đảng được "lập lại", công khai (tại Việt Nam) với tên gọi Đảng Lao Động Việt Nam vào tháng 2 năm 1951, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II ở Tuyên Quang. Đại hội này được diễn ra trong lúc diễn ra Chiến tranh Đông Dương lần thứ I. Đại hội này cũng tách bộ phận của Lào và Campuchia (vốn cùng thuộc Đảng Cộng sản Đông Dương) thành các bộ phận riêng.
Sau đại hội II, Đảng Cộng sản thực thi chiến dịch cải cách ruộng đất. Trong cuộc cải cách, 810.000 hécta ruộng đất ở đồng bằng và trung du miền Bắc đã được chia cho 2 triệu hộ nông dân, chiếm khoảng 72,8% số hộ nông dân ở miền Bắc. Tuy nhiên, cuộc cải cách đã đấu tố oan nhiều người, dẫn đến nhiều cái chết oan (số liệu cụ thể chưa được xác định). Đến tháng 9 năm 1956, Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (họp từ 25/8 đến 24/9/1956) nhận định các nguyên nhân đưa đến sai lầm, và thi hành biện pháp kỷ luật đối với Ban lãnh đạo chương trình Cải cách Ruộng đất như sau: Trường Chinh phải từ chức Tổng Bí thư Đảng, hai ông Hoàng Quốc Việt và Lê Văn Lương ra khỏi Bộ Chính trị, và Hồ Viết Thắng bị loại ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III được tổ chức tại Hà Nội vào năm 1960 chính thức hóa công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa tại miền Bắc, tức Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lúc đó và đồng thời tiến hành cách mạng tại miền Nam.
Tại miền Nam, đảng bộ Miền Nam năm 1962 công khai lấy tên Đảng Nhân dân cách mạng Miền Nam, là thành viên và lãnh đạo Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam.
Sau thống nhất
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV, được tổ chức vào năm 1976 sau khi chấm dứt Chiến tranh Việt Nam, tên Đảng được đổi lại thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986 diễn ra trong bối cảnh sai lầm của đợt tổng cải cách giá - lương - tiền cuối năm 1985 làm cho kinh tế Việt Nam càng trở nên khó khăn. Đại hội khởi xướng chính sách đổi mới, cải tổ bộ máy nhà nước, và chuyển đổi sang phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong khi vẫn duy trì vị trí lãnh đạo chính trị của Đảng Cộng sản.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X năm 2006 tiếp tục chính sách đổi mới, đồng thời cho phép Đảng viên làm kinh tế tư nhân
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI năm 2011 thí điểm kết nạp chủ doanh nghiệp tư nhân vào Đảng
Tổ chức
Bài chi tiết: Tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam là một đảng theo chủ nghĩa Marx-Lenin với nguyên tắc tập trung dân chủ. Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc là cơ quan quyền lực cao nhất của Đảng, là cơ quan duy nhất có quyền ban hành hoặc sửa đổi Điều lệ Đảng và cương lĩnh chính trị, thông qua báo cáo tổng kết nhiệm kỳ đã qua và thông qua nghị quyết về phương hướng hành động nhiệm kỳ tới, bầu ra Ban Chấp hành Trung ương là cơ quan lãnh đạo cao nhất việc chấp hành nghị quyết của đại hội.
Giữa 2 kỳ đại hội, Ban chấp hành trung ương là cơ quan lãnh đạo cao nhất. Ban chấp hành trung ương do đại hội bầu ra tại đại hội Đảng toàn quốc và ban này họp 6 tháng 1 lần, họp bất thường khi cần. Ban chấp hành Trung ương bầu ra Bộ chính trị, bầu Tổng bí thư trong số ủy viên Bộ Chính trị và thành lập Ban Bí thư để xử lý công việc theo nhiệm vụ đã được quy định tại Điều lệ Đảng. Tổng bí thư đứng đầu Ban Chấp hành Trung ương chủ trì cả Ban Chấp hành Trung ương, Bộ chính trị và Ban bí thư.
Đại hội Đảng được tổ chức thường kỳ 5 năm một lần để xác định đường lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, đại hội bất thường khi cần. Đồng thời Đại hội Đảng bộ Quân đội cũng tổ chức 5 năm 1 lần bầu ra Đảng ủy Quân sự Trung ương, gồm có một số ủy viên do Bộ Chính trị phân công và các ủy viên trong quân đội để lãnh đạo đường lối quân sự của Đảng đề ra. [9]
Vào năm 1976, sau khi Việt Nam thống nhất, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã tăng từ 77 đến 133 ủy viên và Bộ Chính trị tăng từ 11 đến 17 ủy viên trong khi Ban Bí thư tăng từ 7 đến 9 ủy viên.
Đảng Cộng sản Việt Nam còn có hệ thống các ban, mỗi ban do một trưởng ban (ít nhất là ủy viên Ban Chấp hành Trung ương) đứng đầu.
Số đảng viên tăng gấp hai từ 760.000 vào năm 1966 đến 1.553.500 vào năm 1976, đại diện 3,1% tổng dân số toàn quốc, và lên đến gần 2 triệu vào năm 1986.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI tổ chức vào tháng 12 năm 1986, ông Nguyễn Văn Linh trở thành Tổng Bí thư cùng 14 thành viên được bầu vào Bộ Chính trị và Ủy ban Trung ương được mở rộng đến 173 thành viên.
Đại hội lần thứ IX diễn ra vào tháng 4 năm 2001 với 1168 đại biểu tham dự. Ban Chấp hành Trung ương Đảng với 150 thành viên do Đại hội Đảng bầu ra, họp ít nhất mỗi năm hai lần, với Bộ Chính trị họp nhiều lần hơn và Ban Bí thư có trách nhiệm giám sát hoạt động hằng ngày dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, ông Nông Đức Mạnh trở thành Tổng Bí thư mới.
Kết thúc nhiệm kỳ này, toàn Đảng có gần 3,1 triệu đảng viên, chiếm 3,73% dân số cả nước.
Đại hội lần thứ X diễn ra từ 18 đến 25 tháng 4 năm 2006 với 1.176 đại biểu tham dự, sau khi bốn đại biểu. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương khóa X với 160 thành viên, với Bộ Chính trị gồm 14 thành viên. Ông Nông Đức Mạnh được bầu lại chức Tổng Bí thư.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam gồm 175 Ủy viên chính thức và 25 Ủy viên dự khuyết. Ngày 19/1/2011, gần 1.400 đại biểu đã cùng chúc mừng ông Nguyễn Phú Trọng (67 tuổi, Chủ tịch Quốc hội) trúng cử Tổng bí thư khóa XI. Danh sách 14 Ủy viên Bộ Chính trị cũng được xác định với 5 người mới, bên cạnh 9 vị tái cử.
Ủy ban Kiểm tra Trung ương và ở các cấp
Ngoài các ban còn có Ủy ban Kiểm tra Trung ương chuyên xem xét tư cách đạo đức các đảng viên là cán bộ cao cấp, các vụ việc tiêu cực liên quan đến các đảng viên cao cấp.
Điều 32 Điều lệ Đảng quy định nhiệm vụ của Uỷ ban kiểm tra các cấp như sau:
1. Kiểm tra đảng viên, kể cả cấp ủy viên cùng cấp khi có dấu hiệu vi phạm tiêu chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn cấp ủy viên và trong việc thực hiện nhiệm vụ đảng viên.
2. Kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, các nguyên tắc tổ chức của Đảng; kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra và thi hành kỷ luật trong Đảng.
3. Xem xét, kết luận những trường hợp vi phạm kỷ luật, quyết định hoặc đề nghị cấp ủy thi hành kỷ luật.
4. Giải quyết tố cáo đối với tổ chức đảng và đảng viên; giải quyết khiếu nại về kỷ luật Đảng.
5. Kiểm tra tài chính của cấp ủy cấp dưới và của cơ quan tài chính cấp ủy cùng cấp.
Uỷ ban kiểm tra có quyền yêu cầu tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên báo cáo, cung cấp tài liệu về những vấn đề liên quan đến nội dung kiểm tra.
Tư tưởng
Tuy chính thức là một đảng Marx-Lenin, Đảng Cộng sản Việt Nam đã cải tổ đường lối theo kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và tạo điều kiện cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh.
Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương
Chức Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, tồn tại từ năm 1951 đến 1969, chỉ duy nhất do chủ tịch Hồ Chí Minh nắm giữ, được coi là cao hơn Tổng Bí thư.
Phụ trách Ban Chấp hành Trung ương Lâm thời (tháng 2 năm 1930 - tháng 10 năm 1930)
Họ tên
|
Thời gian giữ chức
|
Ghi chú
|
Trịnh Đình Cửu
|
7 tháng 2, 1930 - 31 tháng 10, 1930
|
Phụ trách Ban Chấp hành Trung ương Lâm thời Đảng Cộng sản Đông Dương
|
Các Tổng Bí thư (tương đương với Bí thư Thứ nhất trong giai đoạn 1960 - 1976)
Họ tên
|
Thời gian giữ chức
|
Ghi chú
|
Trần Phú
|
10/1930-4/1931
|
Tổng bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương
|
Lê Hồng Phong
|
3/1935đến 6/1936
|
Tổng bí thư ĐCS Đông Dương.
Chỉ được công nhận gần đây, quãng từ năm 2000 trở đi
|
Hà Huy Tập
|
7/1936 đến 3/1938
|
Tổng bí thư ĐCS Đông Dương.
Chỉ được công nhận gần đây, quãng từ năm 2000 trở đi
|
Nguyễn Văn Cừ
|
3/1938 đến 1/1940
|
Tổng bí thư ĐCS Đông Dương
|
Trường Chinh
|
5/1941 đến 9/1956
|
Quyền Tổng Bí thư ĐCS Đông Dương (từ tháng 11/1940)
Tổng bí thư Đảng Lao động Việt Nam (từ 1951)
Thôi giữ chức sau Hội nghị Trung ương về vấn đề sửa sai cải cách ruộng đất
|
Hồ Chí Minh
|
10/1956 đến 9/1960
|
Quyền Tổng bí thư ĐCS Đông Dương (Kiêm chức Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương Đảng)
|
Lê Duẩn
|
9/1960 đến 7/1986
|
Bí thư Thứ nhất Đảng Lao động Việt Nam (9/1960-12/1976)
Tổng bí thư ĐCS Việt Nam (12/1976-7/1986: đến lúc mất)
|
Trường Chinh
|
7/1986 đến 12/1986
|
Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam
|
Nguyễn Văn Linh
|
12/1986 đến 6/1991
|
Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam
|
Đỗ Mười
|
6/1991 đến 12/1997
|
Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam
|
Lê Khả Phiêu
|
12/1997 đến 4/2001
|
Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam
|
Nông Đức Mạnh
|
4/2001 đến 1/2011
|
Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam
|
Nguyễn Phú Trọng
|
1/2011 đến nay
|
Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam
|
Các kỳ đại hội đại biểu toàn quốc
Đại hội Đại biểu toàn quốc
|
Thời gian
|
Địa điểm
|
Số đại biểu
|
Số đảng viên
|
Sự kiện
|
Lần thứ nhất
|
27 - 31/3/1935
|
Ma Cao
|
13
|
600
|
Thực hiện phong trào Cộng sản ở ba xứ Đông Dương
|
Lần thứ hai
|
11 - 19/2/1951
|
Tuyên Quang
|
158 (53 dự khuyết)
|
766.349
|
Đổi tên thành Đảng Lao Động Việt Nam.
|
Lần thứ ba
|
05 - 12/9/1960
|
Hà Nội
|
525 (51 dự khuyết)
|
500.000
|
Xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tiến hành cách mạng miền Nam
|
Lần thứ tư
|
14 - 20/12/1976
|
Hà Nội
|
1008
|
1.550.000
|
Đại hội đầu tiên sau thống nhất, lấy lại tên là đảng Cộng sản Việt Nam
|
Lần thứ năm
|
27 - 31/3/1982
|
Hà Nội
|
1033
|
1.727.000
|
|
Lần thứ sáu
|
15 - 18/12/1986
|
Hà Nội
|
1129
|
~1.900.000
|
Khởi xướng chính sách đổi mới
|
Lần thứ bảy
|
24 - 27/6/1991
|
Hà Nội
|
1176
|
2.155.022
|
|
Lần thứ tám
|
28 - 01/7/1996
|
Hà Nội
|
1198
|
2.130.000
|
|
Lần thứ chín
|
19 - 22/4/2001
|
Hà Nội
|
1168
|
2.479.719
|
|
Lần thứ mười
|
18 - 25/4/2006
|
Hà Nội
|
1176
|
~3.100.000
|
|
Lần thứ mười một
|
12 - 19/1/2011
|
Hà Nội
|
1377
|
~ 3.600.000
|
|
|