Sáng ngày 28/12, Chính phủ tổ chức Hội nghị trực tuyến với các địa phương để triển khai Nghị quyết của Quốc hội khóa XIV về nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2021. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân, Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng, các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, lãnh đạo MTTQ Việt Nam, các Ban, Bộ, ngành Trung ương dự Hội nghị.
Tổng thuật nội dung, diễn biến của Hội nghị Chính phủ với các địa phương - diễn ra trong 1,5 ngày dưới sự chủ trì của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc từ điểm cầu chính tại trụ sở Chính phủ, Hội nghị được kết nối tới 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương của Cổng Thông tin điện tử Chính phủ:
Các giải pháp kịp thời, phù hợp với tình hình và thực lực đất nước
Phát biểu chỉ đạo Hội nghị, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng bày tỏ vui mừng lần thứ 4 liên tiếp tham dự Hội nghị Chính phủ với các địa phương, Hội nghị lần này tổng kết năm 2020 và bàn kế hoạch thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2021.
Hội nghị diễn ra vào cuối năm 2020, năm cận kề Đại hội XIII của Đảng, năm cuối thực hiện kế hoạch 5 năm và chiến lược phát triển 10 năm. Các đồng chí đã chuẩn bị công phu, chu đáo, nghiêm túc, Chính phủ báo cáo toàn diện, đầy đủ, rõ ràng, phát biểu của các địa phương cụ thể, phong phú, sinh động.
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước phát biểu thêm một số vấn đề có tính chất gợi mở, tổng quát để các đồng chí suy nghĩ, trao đổi thêm.
Năm 2020 có nhiều khó khăn, thách thức, bất ngờ lớn, tác động nhiều mặt tới nước ta và toàn thế giới. Kinh tế toàn cầu suy thoái nặng nề, tăng trưởng âm 4%. Trong nước, khó khăn chồng chất khó khăn, nhưng trong bối cảnh đặc biệt đó, chúng ta vẫn hoàn thành khá toàn diện các mục tiêu đề ra với nhiều điểm mới vượt trội và nhiều dấu ấn nổi bật.
Ảnh: VGP
Cụ thể, ứng phó nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả với thiên tai, dịch bệnh. Củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. “Trong những thời khắc đầy khó khăn thách thức, tính ưu việt của chế độ, các truyền thống tốt đẹp, ý chí của dân tộc ta được phát huy và đưa lên tầm cao mới. Các giải pháp đưa ra phù hợp tình hình và thực lực đất nước, chấp nhận hi sinh một số lợi ích trước mắt để bảo vệ sức khỏe và tính mạng nhân dân, chống dịch như chống giặc…
Việt Nam tuy còn khó khăn về kinh tế nhưng là một hình mẫu về phòng chống dịch bệnh, với chi phí thấp nhất, có trách nhiệm cao với cộng đồng quốc tế. Đại sứ EU đã nói, ở lại Việt Nam thời đại dịch là một may mắn xa xỉ.
Cùng với đó, nỗ lực phục hồi duy trì tăng trưởng cao nhất có thể, là một trong những nền kinh tế tăng trưởng cao nhất thế giới, với nhiều chủ trương chính sách ban hành kịp thời và thực hiện tốt.
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước nhắc tới hàng loạt kết quả nổi bật như tăng trưởng GDP, xuất khẩu, nợ công, giải ngân vốn đầu tư công… Cùng với đó là những kết quả toàn diện về bảo đảm an sinh xã hội, đối ngoại, quốc phòng – an ninh. Trong bối cảnh gồng mình chống thiên tai dịch bệnh, chúng ta vẫn tổ chức thành công Đại hội Đảng các cấp và đang chuẩn bị tổ chức Đại hội XIII theo đúng kế hoạch đề ra, chặt chẽ, kỹ lưỡng, bài bản, đúng quy định, nhiều đổi mới.
“Dự Hội nghị Chính phủ với các địa phương năm ngoái, tôi có chúc rằng các đồng chí phấn đấu làm sao để năm 2020 phải hơn 2019. Đến nay, dù còn những hạn chế, có chỉ tiêu chưa làm được, nhưng như trong báo cáo của Chính phủ, năm 2020 đã thành công hơn năm 2019 và là năm thành công nhất trong 5 năm qua”, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước nhấn mạnh.
Chỉ đạo các giải pháp, nhiệm vụ lớn trong năm 2021 và thời gian tới, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước yêu cầu tuyệt đối không được chủ quan, thỏa mãn vì mục tiêu đặt ra trong năm 2021 là rất cao trong bối cảnh chúng ta còn gặp nhiều khó khăn, tình hình thế giới thời gian tới sẽ diễn biến rất phức tạp, khó đoán định, thế giới rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng về nhiều mặt dưới tác động của đại dịch COVID-19.
Chúc năm 2021 phải đạt nhiều thành tích và tiến bộ hơn năm 2020, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước nhắc lại yêu cầu tuyệt nhiên không được say sưa, tự mãn, vì trước mắt khó khăn thách thức rất nhiều, công việc nặng nề đang chờ đón. Đặc biệt, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước lưu ý đội ngũ cán bộ cả nước, rường cột của nước nhà, công bộ của dân, phải luôn tự soi tự sửa để không mắc vào những cám dỗ vật chất, để không xảy ra những điều không ai mong muốn.
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước tin tưởng, sau Hội nghị này, với khí thế mới, niềm tin mới, Chính phủ, các địa phương tiếp tục đoàn kết, năng động sáng tạo, phấn đấu thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ năm 2021 và cả nhiệm kỳ, góp phần xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn như Bác Hồ hằng mong đợi.
Phát biểu đáp từ, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc bày tỏ cảm ơn những chỉ đạo rất sâu sắc, toàn diện của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước. Những nội dung phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước là sự động viên, khích lệ to lớn và là định hướng xuyên suốt trong hoạt động của Chính phủ và chính quyền các cấp trong thời gian tới. Chính phủ, từng thành viên Chính phủ sẽ lĩnh hội, quán triệt và triển khai các nội dung chỉ đạo của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước bằng những hành động cụ thể, thiết thực, đạt được những kết quả to lớn hơn trong thời gian tới.
Việt Nam có thể đi đầu trong một số lĩnh vực
Phát biểu khai mạc, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh: Như đã thành thông lệ quý báu, hôm nay chúng ta vui mừng đón Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đến tham dự Hội nghị và có bài phát biểu chỉ đạo quan trọng. Chính phủ cũng vui mừng đón đồng chí Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân, các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các đồng chí ủy viên Trung ương Đảng, lãnh đạo các Bộ ngành trung ương, địa phương cùng tham dự Hội nghị quan trọng hôm nay.
Nhớ lại 5 năm trước, khi Chính phủ bắt tay vào thực hiện kế hoạch phát triển KT-XH 5 năm 2016 – 2020, nền kinh tế đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn cả trong và ngoài nước. Hôm nay, nhìn lại cả chặng đường đã đi, tôi vui mừng được chia sẻ rằng đất nước ta thực sự tốt đẹp hơn bao giờ. Kinh tế tiếp tục tăng trưởng cao, mọi người dân được hưởng thành quả phát triển, biên cương, bờ cõi được giữ vững, niềm tin được củng cố, niềm tự hào với bè bạn năm châu được nhân lên. Trong nhiệm kỳ qua, chúng ta đã đảm nhiệm thành công nhiều cương vị quan trọng tại các diễn đàn, tổ chức quốc tế, khu vực, nhất là nước chủ nhà APEC 2017, Chủ tịch ASEAN 2020, AIPA 41, Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Chúng ta đã tổ chức thành công nhiều sự kiện quốc tế quan trọng, đặc biệt là Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ - Triều.
Trong suốt hành trình 5 năm, Chính phủ đã nhận được sự chỉ đạo sát sao của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, sự ủng hộ, giám sát của Quốc hội, những góp ý thẳng thắn, cụ thể của các đại biểu Quốc hội, sự phối hợp tích cực, hiệu quả của các cơ quan tư pháp; sự ủng hộ của MTTQ các cấp trong huy động, phát huy sức mạnh đoàn kết, thống nhất trong toàn hệ thống chính trị.
Riêng năm 2020, dưới tác động của COVID-19, trong khi nhiều nước trong khu vực và trên thế giới rơi vào suy thoái, Việt Nam chúng ta là quốc gia hiếm hoi duy trì được tăng trưởng dương. Dịch bệnh trong nước được kiểm soát vững chắc, giảm thiểu số người chết và những thiệt hại về kinh tế; an sinh xã hội được bảo đảm, văn hoá, môi trường, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thông tin truyền thông đạt nhiều kết quả ấn tượng, công tác tuyên giáo, dân vận chính quyền phát huy được nhiều ảnh hưởng và sức lan tỏa trong cán bộ-công chức và nhân dân. Đến thời điểm này có thể khẳng định chúng ta đã đạt được "mục tiêu kép" trong phòng chống dịch COVID-19 và duy trì tăng trưởng kinh tế. Nhìn rộng hơn, chúng ta không chỉ thành công về phát triển kinh tế mà công tác xây dựng Đảng, phòng, chống tham nhũng cũng được Đảng, Nhà nước đẩy mạnh, qua đó thiết lập lại kỷ cương phép nước, đẩy lùi tiêu cực, góp phần làm trong sạch đội ngũ cán bộ các cấp, từng bước lành mạnh hóa môi trường kinh doanh và môi trường xã hội.
Như câu ngạn ngữ, thành công không chỉ được đo bằng những gì đạt được mà còn bởi những trở ngại đã vượt qua. Với những thành quả đặc biệt đó, năm 2020 có thể được xem là năm thành công nhất trong 5 năm nhiệm kỳ của chúng ta về ý chí và tinh thần vượt khó vươn lên. Niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, tương lai đất nước, cơ đồ dân tộc không ngừng được củng cố và vun đắp. Nó cho thấy, những lúc khó khăn nhất, gai góc nhất là những dịp bản sắc của tinh thần dân tộc ta lại trỗi dây, đó chính là sự đoàn kết, “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. Như Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng từng nói: "Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay."
Sự kiện hôm nay không chỉ tổng kết năm 2020 mà còn cả 4 năm trước đó của nhiệm kỳ. Phân tích rõ hơn một số vấn đề đặt ra của đất nước ta trong những năm tới một cách cô đọng nhất, Thủ tướng nêu rõ:
Trong 5 năm qua, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã cùng nhau tạo ra hơn 1.200 tỷ đô-la giá trị GDP. Riêng năm 2020, dù trong muôn vàn khó khăn bởi COVID-19 và sự suy thoái nghiêm trọng của kinh tế thế giới kể từ Đại suy thoái 1929-1932, kinh tế nước ta vẫn kiên cường duy trì tăng trưởng dương xấp xỉ gần 3%. Theo tính toán của IMF, quy mô kinh tế nước ta giờ đây đã đạt hơn 340 tỷ đô-la – đứng trong tốp 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới, tương đương hoặc vượt qua một số nền kinh tế có trình độ phát triển cao trong khu vực, kể cả một số con hổ của Đông Á. Tạp chí Nhà Kinh tế của Anh xếp Việt Nam trong top 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất thế giới. Theo số liệu của WB, với tăng trưởng kinh tế bình quân 6,8%/năm trong giai đoạn 2016-2019, Việt Nam nằm trong top 10 quốc gia tăng trưởng cao nhất thế giới.
Chúng ta vui mừng nhận thấy tăng trưởng nay đã bao trùm hơn rất nhiều, không chỉ ở đô thị mà còn ở nông thôn, không chỉ ở đồng bằng mà còn miền núi, biên giới, hải đảo. Chúng ta cũng chứng kiến những con số tăng trưởng ấn tượng của nhiều địa phương mới nổi bên cạnh các địa phương truyền thống. Có thể nói, chính sự tăng trưởng bứt phá của các địa phương mới nổi là nhân tố truyền cảm hứng cho nhiều địa phương khác tự tin vượt lên chính mình.
Ở góc nhìn khác, tăng trưởng kinh tế nay đã không còn phụ thuộc nhiều vào riêng một thành phần kinh tế nào, dù là DNNN hay FDI, mà vai trò của kinh tế tư nhân đang từng bước được khẳng định là một động lực quan trọng của đất nước như tinh thần Nghị quyết 10 của Trung ương Khóa 12. Chúng ta cũng không tập trung vào một vài ngành kinh tế nào mà nay công nghiệp, dịch vụ, và đặc biệt là nông nghiệp đều cùng giữ vai trò và đóng góp quan trọng. Trong ngoại thương, nhờ nhiều hiệp định FTA, Việt Nam đã không quá tập trung vào một vài thị trường truyền thống; đồng thời chú trọng hơn nữa thị trường trong nước. Thu NSNN đạt kết quả ấn tượng, cơ bản đạt mục tiêu đề ra; chi NSNN chặt chẽ hơn, tiết kiệm, hiệu quả hơn.
Tăng trưởng GDP có nhiều ý nghĩa vì phía sau đó là những nỗ lực bền bỉ của những ngày lao động cần cù, vất vả của người dân, doanh nghiệp và cả hệ thống chính trị. Tuy nhiên. GDP không tính đến tuổi thọ và sức khỏe của người dân, không đo lường được sự tận tụy, cống hiến của cán bộ, công chức, viên chức, không đong đếm được tình người trong bão lũ ở miền Trung và đại dịch COVID-19 vừa qua, và không thể phản ánh đầy đủ được bản chất tốt đẹp của chế độ ta.
Đó là lý do chúng ta bổ sung nhiều tiêu chí khác, nhất là việc làm và thu nhập. Trong 5 năm qua, nền kinh tế nước ta đã tạo ra được hơn 8 triệu việc làm mới cho người dân, trong đó bao gồm những người đến tuổi lao động và cả những người bị mất việc làm trước đó. Nhờ có việc làm tốt hơn, thu nhập của người dân ngày càng tăng lên, kinh tế phát triển, đời sống xã hội tốt đẹp hơn. Hiện thu nhập bình quân mỗi lao động đạt gần 5.000 đô-la một năm. Tính cả nhiệm kỳ qua, thu nhập bình quân của người dân chúng ta đã tăng gần 145%. Đánh giá theo tiêu chuẩn của WB tính theo sức mua tương đương, thu nhập trung bình của người dân VN tương đương gần 9.000 đô-la Mỹ.
Thu nhập là một tiêu chí quan trọng nhưng chúng ta chứng kiến, có những quốc gia có thu nhập tăng nhưng tuổi thọ của người dân không tăng, tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh hay tỷ lệ học vấn của người dân không được cải thiện. Việt Nam không chỉ thành công về kinh tế mà còn đạt được nhiều tiến bộ nhanh chóng về xã hội. Tuổi thọ trung bình của người dân chúng ta nay đã tăng lên gần 74 tuổi. Theo UNICEF, chúng ta đã đạt được những tiến bộ đáng kể trong việc nâng cao tỷ lệ sống sót của trẻ dưới 5 tuổi. Trong Báo cáo gần đây của UNDP, Chỉ số Phát triển Con người (HDI) của Việt Nam đã được xếp vào nhóm phát triển cao của thế giới. Kinh tế phát triển nhanh nhưng tình trạng bất bình đẳng được kiểm soát tốt, cả bình đẳng về thu nhập lẫn bình đẳng giới. Việt Nam cũng đạt được nhiều thành quả vô cùng ý nghĩa về giảm nghèo, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giảm còn dưới 3% so với 10% của 5 năm trước. Cách đây hơn 1 năm, tôi rất cảm động khi đọc tin thấy cụ bà Đỗ Thị Mơ ở Thanh Hóa, dù đã 83 tuổi nhưng vẫn đạp xe lên xã xin trả lại sổ hộ nghèo. Tinh thần của Cụ là tấm gương có sức lan tỏa trong cả nước.
Về giáo dục, Đảng và Nhà nước ta luôn thống nhất quan điểm "Đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển", xem "Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu". Mỗi năm ngân sách nhà nước chi cho giáo dục không thấp hơn 20% tổng chi ngân sách, tương đương trên 5,7% GDP, thuộc nhóm cao trên thế giới. Chất lượng giáo dục nhìn chung được nâng lên. Việt Nam tiếp tục giữ vững truyền thống xưa nay là giành nhiều thành tích quan trọng ở các kỳ thi khu vực và quốc tế.
Bên cạnh giáo dục, Đảng và Nhà nước ta cũng đã đầu tư và thực hiện ngày một tốt hơn các chính sách chăm sóc y tế cho nhân dân. Nếu không nhờ sự quan tâm và đầu tư đó, chúng ta rất khó đạt được những thành quả trong phòng chống dịch vừa qua. Việt Nam được các tổ chức quốc tế đánh giá là quốc gia có mô hình chống dịch hiệu quả hàng đầu trên thế giới. Thành quả chống COVID-19 có được là ý chí của cả hệ thống chính trị, sự ủng hộ của toàn dân và đã phần nào cho thấy tính hiệu quả của hệ thống y tế công cộng mà Đảng, Nhà nước ta đã quan tâm đầu tư. Cùng với đó, chính sách bảo hiểm y tế đang đóng vai trò rất lớn trong mạng lưới an sinh xã hội. Nhiều trẻ em có hoàn cảnh khó khăn không may mắc bệnh hiểm nghèo, rất cần sự hỗ trợ của bảo hiểm y tế.
Chúng ta cũng vui mừng nhìn thấy sự thay đổi nhanh chóng trong đời sống vật chất lẫn tinh thần của người dân trên mọi miền tổ quốc. Đô thị hóa đang lan tỏa mạnh mẽ. Chương trình nông thôn mới đã đem lại nhiều thay đổi rất tích cực. Ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, Đảng, Nhà nước và chính quyền các địa phương đã ưu tiên nguồn lực ngân sách đáng kể để đầu tư kết cấu hạ tầng, giáo dục, y tế và các thiết chế văn hóa, v.v… vừa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, thực hiện chính sách giảm nghèo, vừa phục vụ đời sống người dân. Đảng và Nhà nước luôn ghi nhận những đóng góp quan trọng của đồng bào dân tộc thiểu số đối với sự phát triển kinh tế- xã hội, an ninh quốc phòng của đất nước. Nghị quyết 120 về phát triển bền vững ĐBSCL đã được triển khai trên cả giác độ tái cơ cấu kinh tế và phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu. Song song, chúng ta đã và đang ngày càng quan tâm, đề cao ý thức gìn giữ, bảo tồn và phát huy các giá trị bản sắc văn hóa vật thể lẫn phi vật thể của dân tộc ta.
Trong các chương trình nghị sự, Chính phủ đặt quyền và lợi ích của người dân và doanh nghiệp vào vị trí trung tâm. Chính phủ đã đưa nghị quyết về cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia lên Nghị quyết số 02, chỉ sau Nghị quyết 01 về nhiệm vụ phát triển KT-XH trong những năm qua.
Nông nghiệp tiếp tục khẳng định vai trò trụ đỡ của nền kinh tế; an ninh lương thực được bảo đảm; phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch, hữu cơ đang trở thành xu hướng; xuất khẩu nông sản đạt hơn 41 tỷ USD. Công nghiệp chuyển biến theo chiều sâu với tỉ trọng hàng xuất khẩu qua chế biến tăng từ 65% năm 2016 lên 85% năm 2020; tỉ trọng xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao tăng từ 23% lên 50% trong cùng kỳ. Nhiều ngành dịch vụ có tiềm năng, lợi thế, hàm lượng khoa học, công nghệ cao như viễn thông, công nghệ thông tin, tài chính, ngân hàng, du lịch, thương mại điện tử phát triển khá nhanh.
Bên cạnh kinh tế nhà nước tiếp tục giữ vai trò chủ đạo, chúng ta cũng vui mừng chứng kiến khu vực kinh tế tư nhân của Việt Nam ngày càng lớn mạnh trở thành mũi nhọn tại một số ngành/lĩnh vực kinh tế quan trọng. Doanh nghiệp của VN đang dần chiếm lĩnh một số vị trí then chốt của nền kinh tế. Chúng ta cũng vui mừng khi ngày càng nhiều doanh nghiệp VN chuyển hướng đầu tư vào công nghệ, sáng tạo, nắm bắt và làm chủ các thành tựu của cách mạng công nghiệp 4.0. Nhiều sản phẩm hàng hóa do doanh nghiệp VN sản xuất hay thương hiệu Việt Nam, Made in Việt Nam đã vươn ra thị trường toàn cầu.
Mới đây, một hãng định giá thương hiệu nổi tiếng của Anh đã định giá trị thương hiệu quốc gia của Việt Nam là 319 tỷ USD, tăng 29% so với năm ngoái, đưa Việt Nam lên vị trí thứ 33 (tăng 9 bậc) trong Top 100 thương hiệu quốc gia giá trị nhất thế giới. Đây không phải là kết quả mới mà liên tục 4 năm qua, thứ hạng giá trị thương hiệu quốc gia của Việt Nam đã tăng một cách vững chắc nhờ những nỗ lực của Việt Nam về cải cách môi trường đầu tư kinh doanh, đẩy mạnh xuất khẩu, hỗ trợ thương hiệu sản phẩm và doanh nghiệp. Đặc biệt, trong bối cảnh COVID-19, Việt Nam nổi lên là "thiên đường" sản xuất mới tại Đông Nam Á với những dự báo tích cực về tăng trưởng GDP.
Hệ thống tài chính của chúng ta đã lâu rồi mới tạo lập lại sự ổn định hiếm có như những năm qua. Thị trường chứng khoán tăng trưởng đạt điểm kỷ lục lịch sử với 1.200 điểm vào tháng 4/2018. Quy mô vốn hóa thị trường đạt trên 100% GDP, trong đó cổ phiếu đạt gần 70% GDP, giúp bổ sung thêm khoảng trên 120 tỷ đô-la vào tài sản quốc gia so với cách đây 5 năm. Giá trị tài sản của các ngân hàng tiếp tục tăng lên; năng lực tài chính, độ vững mạnh và an toàn hệ thống tiếp tục được củng cố, tỷ lệ nợ xấu thấp. Việc điều hành chính sách tiền tệ đạt được nhiều tiến bộ quan trọng, đặc biệt là các công cụ chính sách được sử dụng linh hoạt, thận trọng, bám sát các tín hiệu của thị trường tiền tệ trong nước và quốc tế. Chính sách tỷ giá phản ánh các quan hệ cung của thị trường hối đoái, sức mua của tiền đồng so với các đồng tiền quốc tế được duy trì, giúp đạt được mục tiêu ổn định vĩ mô.
Cán cân thanh toán quốc tế, nhất là cán cân vãng lai, trong đó đặc biệt là cán cân thương mại hàng hóa liên tục thặng dư trong suốt 5 năm qua nhờ những lợi thế cạnh tranh có tính cơ cấu, và nhờ sự dịch chuyển của các chuỗi cung ứng toàn cầu. Điều hành tỷ giá của Việt Nam không nhằm mục tiêu duy trì lợi thế xuất khẩu mà phản ánh khách quan các quan hệ của thị trường.
Cùng với cân đối bên ngoài tốt, cân đối bên trong cũng được cải thiện tích cực. Tỷ lệ bội chi ngân sách và nợ công đều được kéo giảm xuống mức an toàn hơn, nhờ đó không gian tài khóa và dư địa chính sách của chúng ta được nâng lên đáng kể. Chính dư địa này đã trở thành bệ đỡ, giúp nền kinh tế vượt qua muôn vàn khó khăn trong giai đoạn dịch bệnh do COVID-19 vừa qua. Ở góc độ người dân và doanh nghiệp, cũng như toàn xã hội nhờ có sự tích lũy sau những năm tăng trưởng tốt và việc làm ổn định mà hoạt động được duy trì, phúc lợi được giữ vững. Hệ số tín nhiệm của Việt Nam được nâng lên ở mức triển vọng ổn định, trong khi rất nhiều quốc gia trên thế giới bị hạ bậc hoặc hạ triển vọng do dịch bệnh COVID-19 và những vấn đề về cơ cấu.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc phát biểu khai mạc Hội nghị. Ảnh: VGP
Bất luận trong hoàn cảnh nào, Chính phủ đều nhận diện những hạn chế, khó khăn mà nền kinh tế nước ta đang gặp phải, chẳng hạn tăng trưởng kinh tế còn chưa tương xứng với tiềm năng và chưa thực sự bền vững. Công ăn việc làm của một bộ phận người dân chưa được đảm bảo, nhất là ở vùng nông thôn, khu vực nông nghiệp và khu vực phi chính thức. Mặt bằng thu nhập vẫn còn thấp và thiếu ổn định, nhất là dưới tác động của COVID-19. Nhiều địa phương đang tăng trưởng nhanh nhưng không phải địa phương nào cũng tìm được động lực tăng trưởng tương xứng với tiềm năng, nhất là ở các tỉnh vùng sâu, miền núi, các vùng đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn nhiều khó khăn. Khu vực doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhỏ và vừa nhìn chung vẫn còn khó khăn, sức cạnh tranh thấp. Các vấn đề cơ cấu của nền kinh tế, những nút thắt về cơ sở hạ tầng, chất lượng nguồn nhân lực, cải cách thể chế pháp luật, môi trường kinh doanh… vẫn còn nhiều trở ngại, mỗi năm có hàng vạn doanh nghiệp bị giải thể hoặc phá sản.
Trong khi đó, chất lượng giáo dục, y tế và các chính sách xã hội của chúng ta nhìn chung vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Đô thị hóa phát triển nhưng chúng ta vẫn còn những khu nhà lụp xụp, quá tải. Những vấn đề sát sườn với đời sống người dân như tai nạn giao thông, an ninh trật tự, tội phạm xã hội, ma túy, cờ bạc, cho vay nặng lãi, nhiều giá trị xã hội bị suy giảm; nhất là tình trạng suy nghĩ lệch lạc, mất định hướng giá trị, sống thiếu hoài bão, thiếu lý tưởng trong một bộ phận giới trẻ. Ô nhiễm môi trường và tác động do biến đổi khí hậu đang ngày càng hiện rõ.
Mọi người đều xót xa khi mỗi năm có nhiều trẻ em bị bạo lực, xâm hại và đuối nước. Chúng ta cũng còn nhiều cụ già neo đơn, không người chăm sóc vv…
Nhìn lại những đánh giá cách đây 5 năm, không ai nghĩ rằng kinh tế thế giới lại rơi vào suy thoái nghiêm trọng như hiện nay. Thậm chí cách đây chỉ 1 năm, từ Covid chưa hề xuất hiện trong từ điển của con người, tuy nhiên cách mạng 4.0, chuyển đổi số, khởi nghiệp, đổi mới, sáng tạo… cũng là những từ khóa thường xuất hiện trong những năm qua. Nhiều người cũng đã nói nhiều đến những thay đổi không chỉ về mặt công nghệ, những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, mà còn các mô thức kinh doanh mới, những loại hình việc làm mới, và cả những thay đổi trong cấu trúc xã hội, sự gia tăng của tầng lớp trung lưu, vấn đề nhân khẩu học, già hóa dân số, và cả biến đổi khí hậu cực đoan, v.v…
Trong số những thay đổi đó, có những thay đổi tích cực, mang lại nhiều đột phá để giải phóng sức lao động của con người, làm cho cuộc sống của con người trở nên tốt đẹp hơn, chẳng hạn như các đột phá trong y học ghép tạng giúp con người có thể sống khỏe mạnh và thọ hơn. Hay đơn cử là việc các nhà khoa học hiện nay chỉ mất gần 1 năm để tìm ra Vaccine COVID-19 trong khi thường cần khoảng 10 năm. Việt Nam chúng ta cũng bắt đầu tiến hành những thử nghiệm lâm sàng về Vaccine COVID-19 trên người, qua đó cho thấy nền y học của nước nhà không thua kém nhiều nước trên thế giới, kể cả các nước phát triển. Tuy nhiên cũng có những thay đổi làm phát sinh nhiều rủi ro và làm trầm trọng hơn vấn đề bất bình đẳng, nguy cơ mất việc làm và sự suy giảm thu nhập. Các doanh nghiệp cũng sẽ dễ dàng dịch chuyển đến bất kỳ nơi đâu trên thế giới.
Chúng ta cũng nhìn thấy nhiều thách thức của biến đổi khí hậu mà Việt Nam là một trong số 05 nước bị ảnh hưởng nặng nề. Hiện tượng "lũ chồng lũ, bão chồng bão" hiếm có ở miền Trung mới đây là một ví dụ; hoặc tình trạng hạn hán, sa mạc hóa ở Nam Trung Bộ; tình trạng xâm nhập mặn ở ĐBSCL… Tuy nhiên, dù chúng ta có lo ngại hay lạc quan, muốn hay không muốn thì những thay đổi ấy vẫn đang diễn ra. Trách nhiệm của Nhà nước là phải kiểm soát rủi ro, giảm thiểu tối đa những thiệt hại cho người dân và nền kinh tế. Đồng thời trong khó khăn, chúng ta cũng nhìn thấy cơ hội mang lại từ làn sóng cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chuyển đổi số là rất lớn, giúp mở ra không gian mới cho sự phát triển.
Mọi người sẽ sớm nhận ra rằng, từ nửa sau thế kỷ 21 này, thế giới có thể sẽ không còn nhớ đến những quốc gia dẫn đầu về thu nhập nhưng sẽ luôn nhớ đến những quốc gia, những tổ chức, những cá nhân tiên phong trong một số thành tựu đem lại cuộc sống tốt hơn cho con người. Việt Nam chưa thể đứng ở nhóm đầu các quốc gia về thu nhập, nhưng hoàn toàn có thể đi đầu trong một số ngành và lĩnh vực mới khai phá. Chúng ta cần sớm nhận ra cơ hội trong khó khăn. Nghị quyết 52NQ/TW của Bộ Chính trị cho thấy Đảng ta đã sớm nhận ra cơ hội này và đã chủ động đề ra chủ trương và chính sách lớn. Cả hệ thống chính trị và người dân chúng ta phải có trách nhiệm và quyết tâm đưa Nghị quyết đó vào thực tiễn, biến cơ hội thành lợi thế, biến lợi thế thành nguồn lực, chuyển nguồn lực thành kết quả tăng trưởng bền vững cho đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng ta.
“Tôi tin những đặc tính của dân tộc ta như tinh thần đoàn kết, ý chí, quyết tâm, tính cần cù, lạc quan và thích ứng nhanh sẽ làm nên thành công. Bởi cha ông ta, cũng với tinh thần đó, đã đứng vững trước mọi thách thức của thiên tai cũng như đẩy lùi mọi cuộc xâm lược để bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc ta. Cũng với tinh thần đó, các nhà lãnh đạo đi trước đã giành được nhiều thành tựu vô cùng ý nghĩa trong gần 35 năm đổi mới. Chính tinh thần ấy đã giúp chúng ta được sự tiến bộ không ngừng trong 5 năm qua. Chính nhờ tinh thần ấy, tăng trưởng kinh tế của chúng ta luôn thuộc nhóm dẫn đầu thế giới. Cũng tinh thần ấy, tinh thần "chống dịch như chống giặc", chúng ta đã kiểm soát được sự lây lan và giảm thiểu được thiệt hại kinh tế do COVID-19 gây ra. Những thành quả đó là sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, của toàn dân, là sự hòa quyện của "Ý Đảng và Lòng Dân"”, Thủ tướng nhấn mạnh.
Hơn lúc nào hết, đây là thời điểm chúng ta cần phải củng cố niềm tin vào những giá trị truyền thống, tin vào bản lĩnh, khí phách, sự gan góc của một dân tộc anh hùng. Nền kinh tế chúng ta, đất nước chúng ta đang tiến nhanh về phía trước với tốc độ mà cách đây ít năm một số đánh giá cho rằng điều này khó có thể xảy ra và chắc chắn rằng dân tộc chúng ta sẽ tiếp tục tiến nhanh hơn nữa về phía trước như tinh thần dự thảo văn kiện Đại hội Đảng lần thứ 13 của Đảng sắp khai mạc vào ngày 25/1/2021.
Sứ mệnh của chúng ta là kiến tạo một môi trường mà ở đó mọi người dân đều có cơ hội tham gia đóng góp vào sự phát triển và "không để ai bị bỏ lại phía sau". Chúng ta đã cùng nhau đạt được những kết quả bước đầu, và không được chủ quan bởi chúng ta còn có thể làm tốt hơn thế. Bên cạnh việc đầu tư những dự án lớn quốc gia, chúng ta cũng không được bỏ sót những dự án nhỏ, những con đường, chiếc cầu ở nông thôn, miền núi. Các cháu phải có cầu qua sông để đi học, đó là mệnh lệnh của trái tim! Cùng với giao thông, hạ tầng viễn thông cũng sẽ được nâng cấp và bao phủ hơn nữa, nhất là mạng 5G.
Giáo dục, đào tạo và dạy nghề là một cách trao cơ hội tốt nhất để mỗi người dân có thể tự mình tìm kiếm được một công việc phù hợp. Chúng ta sẽ phải nâng cấp chất lượng giáo dục, dạy nghề bắt đầu với việc lựa chọn, khuyến khích những thầy giáo, cô giáo có năng lực chuyên môn, kỹ năng sư phạm và đạo đức nghề nghiệp. Đất nước ta phải luôn đề cao tinh thần "tôn sư trọng đạo", "tiên học lễ, hậu học văn". Chính phủ phải đảm bảo môi trường học tập an toàn, lành mạnh, không có bạo lực, khói thuốc và chất kích thích, nhất là tệ nạn ma túy; xóa bỏ bệnh thành tích trong giáo dục.
Cùng với giáo dục, Đảng và Nhà nước ta sẽ đầu tư để có được một hệ thống chăm sóc sức khỏe có chất lượng, dễ dàng tiếp cận và chi phí phù hợp cho mọi người dân, nhất là đối với người dân vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo. Chúng ta phải tiếp tục mở rộng độ bao phủ của bảo hiểm y tế lên 100% trong thời gian sớm nhất, đồng thời phải sớm thực hiện thông tuyến, mở rộng phạm vi thanh toán bảo hiểm y tế, nhất là đối tượng trẻ em, người già, người có hoàn cảnh khó khăn; hướng tới trẻ em dưới 16 tuổi cần được Nhà nước chi trả bảo hiểm y tế hoàn toàn.
Như tôi đã phát biểu trước Quốc hội mới đây, Chính phủ không chấp nhận tình trạng bệnh nhân mù mờ trước chi phí y tế. Chúng ta rất vui khi ngay sau đó, Bộ trưởng Bộ Y tế đã khai trương Cổng Công khai Y tế, tuy nhiên vẫn còn nhiều việc cần làm để hệ thống y tế của chúng ta phục vụ nhân dân tốt hơn. Chúng ta đã kiểm soát được sự lây lan của COVID-19 trong cộng đồng, và phải nỗ lực để không cho dịch tái bùng phát. Hiện Vaccine phòng COVID-19 đang tiến triển tốt. Chính phủ nỗ lực để không ai bị bỏ rơi do chi phí Vaccine cao vượt khả năng chi trả của người dân.
Cùng với giáo dục và y tế, chúng ta cũng đang xây dựng một lưới an sinh xã hội rộng lớn để bảo vệ những người yếu thế trong xã hội. Chúng ta phải có trách nhiệm chăm lo cho những người có công với đất nước; người nghèo, người tàn tật, người già, nhất là người già neo đơn; bảo vệ phụ nữ và trẻ em, nhất là trẻ em gái trước vấn nạn xâm hại tình dục, trẻ em bị ngược đãi về thể chất và tinh thần. Cùng với bảo hiểm hưu trí, bảo hiểm thất nghiệp cũng rất quan trọng để giúp người lao động vượt qua giai đoạn khó khăn, tìm được một cơ hội việc làm mới. Chúng ta thường xuyên quan tâm đến công tác quốc phòng an ninh và đối ngoại, tạo môi trường thuận lợi cho hòa bình, ổn định và phát triển, đặc biệt là trên Biển Đông.
Bên cạnh hai trụ cột Kinh tế và Xã hội, chúng ta phải chú trọng hơn nữa vấn đề Môi trường. Mọi người đều phải có trách nhiệm nhiệm bảo vệ môi trường, từ không khí cho đến nguồn nước, từ dòng sông cho đến con suối, từ hồ ra đến biển. Ngay từ đầu nhiệm kỳ, Chính Phủ đã yêu cầu đóng cửa rừng tự nhiên. Trước Quốc hội, Thủ Tướng CP đã đề xuất trồng 1 tỉ cây xanh trong 5 năm tới.
Cả hệ thống chính trị chúng ta sẽ cùng nhau xây dựng một xã hội phát triển toàn diện, ở đó mọi tầng lớp nhân dân bất kể thành phần, dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, tuổi tác… đều có cơ hội chung tay góp sức, chia sẽ khát vọng mãnh liệt về một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng vào năm 2045.
Dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ 13 đặt mục tiêu:
Đến năm 2025: Là nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp.
Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.
Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập Nước: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của Quốc hội đặt mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2021 khoảng 6%, lạm phát khoảng 4%, cùng 10 chỉ tiêu KT-XH khác. Những chỉ tiêu này được xây dựng trên cơ sở đã tính toán, cân đối các nguồn lực gắn với bối cảnh dự báo cho năm 2021, nhất là tình hình COVID-19 trong nước và thế giới. Mặc dù để đạt được mục tiêu này là rất thách thức, nhưng với quyết tâm chính trị cao, Chính phủ đặt mục tiêu phấn đấu trong điều hành GDP 2021 thêm ít nhất 0,5 điểm phần trăm, lên mức 6,5% và đặt quyết tâm cao hơn cho các chỉ tiêu KT-XH khác.
Đất nước ta sẽ tiếp tục đối diện với nhiều cơ hội mới đan xen thách thức mới. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta cần tiếp tục hun đúc, gìn giữ ngọn lửa khát vọng, tinh thần lạc quan, bền bỉ cho 5 năm tiếp theo và xa hơn, với niềm tin và sự kiên định với lý tưởng và con đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn.
Các đại biểu dự Hội nghị. Ảnh: VGP
Nhiều dấu ấn nổi bật trong 5 năm qua
Báo cáo tóm tắt về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2020 và 5 năm 2016-2020; dự kiến phương hướng, nhiệm vụ thời gian tới, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình cho biết:
Nhiệm vụ phát triển KTXH năm 2020 và 5 năm 2016 - 2020 được thực hiện trong bối cảnh có nhiều thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn, thách thức. Tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn trên thế giới và trong khu vực ngày càng gay gắt. Xung đột thương mại và rủi ro trên thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế gia tăng. Đặc biệt, từ đầu năm 2020, đại dịch Covid-19 xuất hiện và bùng phát trên toàn cầu dẫn đến suy thoái kinh tế thế giới nghiêm trọng nhất kể từ sau Đại khủng hoảng 1929 - 1933. Ở trong nước, sau hơn 30 năm đổi mới, thế và lực của đất nước ngày càng lớn mạnh. Tuy nhiên, những khó khăn, hạn chế nội tại của nền kinh tế và thiên tai, dịch bệnh, nhất là Đại dịch Covid 19, bão lũ, sạt lở đất đã ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội năm 2020 và cả giai đoạn 2016-2020.
Thực hiện các Nghị quyết, Kết luận của Đảng, Quốc hội về phát triển KTXH 5 năm 2016 - 2020 và hằng năm, Chính phủ đã chủ động ban hành các nghị quyết, chương trình hành động cụ thể; xây dựng các phương án, kịch bản điều hành và quyết liệt chỉ đạo các cấp, các ngành, các địa phương tập trung triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp. Tinh thần chung trong chỉ đạo điều hành là quyết tâm xây dựng Chính phủ kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động quyết liệt, phục vụ nhân dân.
Năm 2020, trước diễn biến phức tạp, nghiêm trọng của đại dịch Covid-19, hưởng ứng Lời kêu gọi của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã kịp thời ban hành nhiều kết luận, nghị quyết, chỉ thị và chỉ đạo các cấp, các ngành quyết tâm thực hiện "mục tiêu kép": vừa quyết liệt phòng chống dịch với tinh thần "chống dịch như chống giặc", vừa tập trung phục hồi và phát triển KTXH, bảo đảm đời sống nhân dân. Tập trung chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ người lao động, người dân gặp khó khăn. Đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư công, thúc đẩy tiến độ các dự án quan trọng quốc gia. Đồng thời, chú trọng chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ phát triển văn hóa, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội; triển khai linh hoạt, hiệu quả các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế, quảng bá hình ảnh đất nước Việt Nam an toàn, nhân văn, tốt đẹp.
Nhờ sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, các cấp, các ngành và sự chung sức, đồng lòng, nỗ lực vượt bậc của cộng đồng doanh nghiệp và Nhân dân cả nước, chúng ta đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách và đạt được những thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực, tạo nhiều dấu ấn nổi bật trong năm 2020 và 5 năm 2016 - 2020.
1. Cả nước đã tập trung phòng chống, kiểm soát tốt dịch bệnh, tạo điều kiện thuận lợi cho phục hồi và phát triển KTXH. Trong khi đại dịch Covid-19 còn diễn biến phức tạp trên toàn cầu, chúng ta đã sớm kiểm soát, khống chế được dịch bệnh. Tổ chức Y tế Thế giới, cộng đồng quốc tế đánh giá cao Việt Nam là quốc gia kiểm soát tốt dịch bệnh, có cách làm đúng, kịp thời, hiệu quả, chi phí thấp. Thành công này thể hiện sự quyết tâm cao, ý chí thống nhất, hành động quyết liệt của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; thể hiện sức mạnh đoàn kết, truyền thống yêu nước, tinh thần tương thân, tương ái của dân tộc; củng cố vững chắc niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, khẳng định tính ưu việt của hệ thống chính trị và bản chất tốt đẹp của chế độ ta.
2. Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát, chất lượng tăng trưởng được nâng lên, các cân đối lớn của nền kinh tế được cải thiện. Tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2016 - 2019 bình quân 6,8%/năm. Mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh, nhưng tăng trưởng cả năm 2020 đạt 2,91%; là mức tăng trưởng cao hàng đầu thế giới. Quy mô GDP tăng khoảng 1,4 lần so với năm 2015 (theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế, năm 2020 Việt Nam có thể trở thành nền kinh tế đứng thứ 4 ASEAN); GDP bình quân đầu người năm 2020 ước đạt khoảng 2.750 USD. Năng suất lao động được cải thiện rõ nét, bình quân giai đoạn 2016 - 2020 tăng 5,8%/năm, cao hơn giai đoạn 2011 - 2015 (4,3%) và vượt mục tiêu đề ra (5%). Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) bình quân 5 năm đạt khoảng 45,2% (mục tiêu đề ra là 30 - 35%). Tăng trưởng từng bước chuyển dịch từ chiều rộng sang chiều sâu, ngày càng dựa vào khoa học, công nghệ. Kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định; chỉ số giá tiêu dùng (CPI) giảm từ 18,6% năm 2011 xuống còn dưới 4% trong giai đoạn 2016 - 2020. Tỷ giá, thị trường ngoại hối khá ổn định; lãi suất có xu hướng giảm dần; cán cân thanh toán thặng dư; hệ số tín nhiệm quốc gia được cải thiện. Kỷ cương, kỷ luật tài chính được tăng cường. Thu NSNN năm 2020 đạt 96% dự toán. Cơ cấu lại NSNN đạt kết quả tích cực, tỷ trọng thu nội địa tăng lên 81,6% (giai đoạn 2011 - 2015 là 68,7%); tỷ trọng chi đầu tư phát triển tăng lên 27 - 28%, tỷ trọng chi thường xuyên giảm còn 62 - 63%. Bội chi NSNN và nợ công được kiểm soát trong giới hạn an toàn và giảm so với giai đoạn trước. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội so với GDP đạt khoảng 33,4%. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu năm 2020 ước đạt 543,9 tỷ USD, xuất siêu 5 năm liên tiếp (năm 2020 ước đạt 19,1 tỷ USD). Thị trường nội địa được chú trọng; quản lý thị trường, phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại được tăng cường.
3. Các đột phá chiến lược được tập trung thực hiện và đạt những kết quả tích cực. Đã hình thành hệ thống pháp luật khá đầy đủ, toàn diện. Các loại thị trường vận hành cơ bản thông suốt, bước đầu gắn kết với khu vực và quốc tế. Chất lượng nguồn nhân lực được cải thiện, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 64,5%. Tiềm lực khoa học và công nghệ được tăng cường. Hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia có bước phát triển. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) của Việt Nam năm 2020 xếp thứ 42/131, đứng đầu nhóm 29 quốc gia, nền kinh tế cùng mức thu nhập. Hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội được tập trung nguồn lực đầu tư; nhiều công trình, dự án quan trọng đã được khởi công, xây dựng, hoàn thành, đưa vào sử dụng, tạo thêm năng lực, sức cạnh tranh và diện mạo mới cho đất nước.
4. Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng đạt nhiều kết quả. Vốn đầu tư công được tập trung cho những dự án cấp bách, trọng điểm, có tính kết nối, lan toả cao; giải ngân vốn đầu tư công được chỉ đạo quyết liệt; vốn đầu tư từ NSNN thực hiện năm 2020 đạt cao nhất trong giai đoạn 2011-2020. Cơ cấu lại các tổ chức tín dụng gắn với xử l nợ xấu được triển khai đồng bộ, hiệu quả hơn, bảo đảm ổn định, an toàn hệ thống; tỷ lệ nợ xấu nội bảng ở mức dưới 3%. Việc sắp xếp lại, cổ phần hoá, thoái vốn thực chất hơn; hiệu quả hoạt động, năng lực cạnh tranh của nhiều DNNN được nâng lên. 12 dự án yếu kém của ngành công thương được xử lý và đạt kết quả bước đầu, một số dự án đã có lãi và giảm lỗ lũy kế; đưa 3 dự án ra khỏi danh sách theo dõi, xử lý của Ban chỉ đạo.
Cơ cấu giữa các ngành và nội ngành tiếp tục chuyển dịch tích cực. Tỷ trọng ngành khai khoáng giảm, tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo tăng nhanh; tỷ trọng hàng xuất khẩu qua chế biến tăng từ 65% năm 2016 lên 85% năm 2020. Tập trung phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch, hữu cơ; kinh tế hợp tác và doanh nghiệp nông nghiệp phát triển mạnh; xây dựng nông thôn mới hoàn thành trước thời hạn gần 2 năm; đến nay đã có khoảng 63% xã đạt chuẩn, vượt xa mục tiêu đề ra (50%); xuất khẩu nông sản năm 2020 ước đạt trên 41 tỷ USD. Nhiều ngành dịch vụ có tiềm năng, lợi thế, hàm lượng khoa học công nghệ cao phát triển nhanh.
5. Phát triển văn hoá, xã hội đạt kết quả tích cực, an sinh xã hội cơ bản được bảo đảm, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện. Chính sách đối với người có công với cách mạng được quan tâm thực hiện, đời sống người có công được nâng lên; đến nay có gần 1,4 triệu người có công đang hưởng chế độ ưu đãi hàng tháng. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giảm từ gần 10% năm 2015 xuống dưới 3% năm 2020. Diện bao phủ bảo hiểm xã hội gấp hơn 1,3 lần so với năm 2015, chiếm gần 33% lực lượng lao động. Hệ thống y tế dự phòng và mạng lưới y tế cơ sở được củng cố; triển khai nền tảng hỗ trợ tư vấn khám chữa bệnh trực tuyến, từ xa, kết nối gần 30 bệnh viện tuyến trên với 1.200 cơ sở khám chữa bệnh trên toàn quốc. Tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế tăng từ 75% năm 2015 lên 90,85% năm 2020. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo được tích cực triển khai; chất lượng giáo dục phổ thông, giáo dục đại học tiếp tục được nâng lên. Trong bối cảnh dịch Covid-19, tổ chức kỳ thi tốt nghiệp THPT thành hai đợt, bảo đảm nghiêm túc, công bằng và an toàn. Phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam có những chuyển biến tích cực; các giá trị tốt đẹp của dân tộc được phát huy. Các lễ kỷ niệm lớn, sự kiện quan trọng của đất nước được tổ chức trang trọng, thiết thực và an toàn. Các chính sách dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, người cao tuổi, trẻ em, gia đình, bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ được đẩy mạnh; thể thao thành tích cao có bước tiến bộ. Đã trình Quốc hội phê duyệt Đề án tổng thể và Chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển KTXH vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030. Chỉ số phát triển con người (HDI) được cải thiện, thuộc nhóm nước có mức phát triển con người cao của thế giới, xếp hạng 117/189 quốc gia và vùng lãnh thổ (năm 2019).
6. Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó biến đổi khí hậu có những chuyển biến rõ nét. Tập trung chỉ đạo kịp thời hỗ trợ khắc phục hậu quả, sớm ổn định đời sống và sản xuất của người dân vùng bị thiên tai, đặc biệt là bão lũ, sạt lở đất ở một số tỉnh miền Trung, Tây Nguyên vừa qua. Chấn chỉnh công tác cấp phép tài nguyên, khoáng sản, ngăn chặn khai thác cát, sỏi trái phép. Phát hiện và xử lý nhiều vụ việc, cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Tập trung thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Công tác phòng, chống, khắc phục hậu quả, ứng phó các sự cố thiên tai và cứu hộ, cứu nạn được chú trọng. Thực hiện hiệu quả các chương trình về ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng trưởng xanh và phát triển bền vững (nhất là vùng đồng bằng sông Cửu Long). Chỉ số phát triển bền vững năm 2020 của Việt Nam tăng 39 bậc so với năm 2016, xếp thứ 49/166 quốc gia và vùng lãnh thổ.
7. Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước được nâng lên; cải cách hành chính chuyển biến tích cực, môi trường kinh doanh được cải thiện; phòng chống tham nhũng được chỉ đạo quyết liệt. Tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục được kiện toàn tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tỷ lệ tinh giản biên chế công chức, biên chế sự nghiệp hưởng lương từ NSNN lần lượt đạt 8,68% và 7,56%. Đã hoàn thành việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã. Kỷ luật, kỷ cương hành chính được tăng cường. Tập trung thực hiện đơn giản hoá, cắt giảm thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh. Đến nay đã cắt giảm, đơn giản hóa 63% điều kiện kinh doanh, 68% danh mục hàng hóa phải kiểm tra chuyên ngành. Cơ chế một cửa, một cửa liên thông đi vào nền nếp, chất lượng giải quyết hồ sơ có sự cải thiện rõ rệt, tỷ lệ giải quyết đúng hạn đạt trên 97%. Tinh thần khởi nghiệp lan toả rộng rãi; các mô hình kinh doanh mới và phong trào đổi mới, sáng tạo được đẩy mạnh. Mỗi năm có trên 100 nghìn doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng k bình quân tăng hơn 1,8 lần so với năm 2015. Kinh tế tư nhân ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế; đã hình thành một số tập đoàn kinh tế tư nhân lớn có năng lực cạnh tranh quốc tế. Kinh tế tập thể, hợp tác xã có nhiều mô hình mới, hiệu quả. Xếp hạng môi trường kinh doanh của Việt Nam được cải thiện đáng kể, tăng từ xếp hạng 88/183 năm 2010 lên xếp hạng 70/190 quốc gia, vùng lãnh thổ năm 2019. Công tác thanh tra, kiểm tra, tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo được chú trọng và có chuyển biến tốt; đã điều tra, truy tố, đưa ra xét xử nghiêm minh nhiều vụ án kinh tế, tham nhũng nghiêm trọng; công khai kết luận thanh tra, trong đó có những những vụ việc phức tạp được dư luận, xã hội quan tâm như AVG, Khu đô thị mới Thủ Thiêm,..
8. Quốc phòng, an ninh được tăng cường, chủ quyền quốc gia được giữ vững; đối ngoại và hội nhập quốc tế đạt nhiều kết quả quan trọng. Quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân và thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân được củng cố ngày càng vững chắc. Thực hiện đồng bộ các chiến lược, đề án về quân sự, quốc phòng, an ninh, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Chủ động nắm chắc tình hình, kịp thời phát hiện, ngăn chặn âm mưu “diễn biến hoà bình”, bạo loạn, phá hoại của các thế lực thù địch, phản động; xử lý hiệu quả các vụ việc phức tạp về an ninh, trật tự; tình hình tội phạm, tai nạn giao thông giảm dần. Đối ngoại và hội nhập quốc tế được triển khai chủ động, toàn diện, đồng bộ, đạt nhiều kết quả quan trọng; ký kết và triển khai hiệu quả 14 hiệp định thương mại tự do. Đảm nhiệm thành công nhiều cương vị quan trọng tại các diễn đàn, tổ chức quốc tế, khu vực. Uy tín và vị thế quốc tế của Việt Nam được khẳng định và nâng cao.
Bên cạnh kết quả đạt được, chúng ta thẳng thắn nhìn nhận nước ta vẫn còn những tồn tại, hạn chế, bất cập. Tăng trưởng kinh tế năm 2020 không đạt kế hoạch đề ra do tác động của đại dịch Covid-19, dẫn đến tăng trưởng bình quân 5 năm 2016 - 2020 không đạt mục tiêu. Khả năng chống chịu của nền kinh tế chưa thật vững chắc; năng lực cạnh tranh và tính tự chủ còn hạn chế. Kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng yêu cầu. Đào tạo nguồn nhân lực còn bất cập về cơ cấu, số lượng và chất lượng. Khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo chưa thực sự là động lực chính thúc đẩy năng suất lao động, năng lực cạnh tranh. Cơ cấu lại gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng ở một số lĩnh vực hiệu quả chưa cao. Kết quả giảm nghèo đa chiều chưa thực sự bền vững, khoảng cách phát triển giữa các vùng chậm được thu hẹp. Việc thực hiện gói hỗ trợ người lao động, doanh nghiệp bị ảnh hưởng sâu bởi đại dịch COVID-19 chưa đạt yêu cầu đề ra. Cải cách hành chính một số lĩnh vực còn bất cập; sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế còn khó khăn. Kỷ luật, kỷ cương trong một số cơ quan, đơn vị còn chưa nghiêm. Còn tình trạng thiếu quyết liệt, đùn đẩy, né tránh trách nhiệm. Bảo vệ chủ quyền quốc gia còn nhiều khó khăn, thách thức. Tình hình tội phạm trên một số lĩnh vực, địa bàn diễn biến phức tạp. Tham nhũng, lãng phí ở một số nơi còn chưa được phát hiện, xử lý kịp thời. Khiếu kiện về đất đai còn những vụ việc phức tạp, kéo dài.
Về phương hướng, nhiệm vụ năm 2021 và thời gian tới, Phó Thủ tướng Trương Hòa Bình cho biết:
Năm 2021 có nghĩa đặc biệt quan trọng, là năm tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, bầu cử Quốc hội khóa XV, là năm đầu tiên thực hiện Kế hoạch phát triển KTXH 5 năm 2021 - 2025 và Chiến lược phát triển KTXH 10 năm 2021 - 2030. Dự báo tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường. Hoà bình, hợp tác, liên kết phát triển vẫn là xu thế lớn nhưng cạnh tranh chiến lược giữa một số quốc gia, đối tác lớn tiếp tục diễn ra gay gắt. Xung đột thương mại gia tăng và những tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19 có thể kéo dài, tiềm ẩn nhiều nguy cơ về tài chính, tiền tệ, nợ công trên phạm vi toàn cầu và những thách thức lớn đối với thương mại, đầu tư, tăng trưởng và các vấn đề xã hội.
Sau 35 năm đổi mới, thế và lực của nước ta đã lớn mạnh hơn nhiều với nền tảng kinh tế vĩ mô vững chắc, chính trị - xã hội ổn định, vị thế uy tín quốc tế cao. Việt Nam được đánh giá là quốc gia nhiều tiềm năng, có thị trường gần 100 triệu dân với thu nhập ngày càng tăng, cơ cấu dân số vàng; không gian phát triển rộng mở với 14 hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Tuy nhiên, chúng ta tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách thức.
Chỉ tiêu cụ thể đặt ra cho năm 2021 với 12 chỉ tiêu chủ yếu, trong đó: tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng khoảng 6%; chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân khoảng 4%; tỷ trọng đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng khoảng 45-47%; năng suất lao động xã hội tăng khoảng 4,8%; tỷ lệ lao động qua đào tạo khoảng 66% (trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ khoảng 25,5%); tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế khoảng 91%; tỷ lệ hộ nghèo giảm 1-1,5 điểm phần trăm so với năm 2020; tỷ lệ che phủ rừng khoảng 42%...
Nhiệm vụ của năm 2021 và thời gian tới là rất nặng nề đòi hỏi các cấp, các ngành, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân cả nước cần tiếp tục đổi mới tư duy, hành động quyết liệt hơn, hiệu quả hơn, vượt qua khó khăn, biến thách thức thành cơ hội, tận dụng tốt các thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và xu hướng dịch chuyển đầu tư, thương mại, chuyển đổi số, sự phát triển các mô hình kinh doanh mới, sự thay đổi phương thức sản xuất, tiêu dùng và giao tiếp trên toàn cầu… để thực hiện thành công các mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch năm 2021, tạo nền tảng vững chắc cho việc thực hiện các mục tiêu, định hướng chiến lược phát triển đất nước trong 5 năm, 10 năm tới và hiện thực hoá khát vọng phát triển đến năm 2045 đưa Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao theo tinh thần các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội.
Khó khăn gấp đôi, cố gắng gấp ba
Trình bày báo cáo tóm tắt kiểm điểm công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ năm 2020 và 5 năm 2016-2020, Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh cho biết: Quán triệt phương châm từ đầu nhiệm kỳ là “Xây dựng Chính phủ kiến tạo, liêm chính, hành động, phục vụ Nhân dân”; năm 2020 Chính phủ đã đề ra phương châm: “Kỷ cương, liêm chính, hành động, trách nhiệm, sáng tạo, hiệu quả” với 138 nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội; 49 nhiệm vụ cải thiện môi trường kinh doanh.
Trước tình hình dịch COVID-19, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo thống nhất quan điểm điều hành với tinh thần “khó khăn gấp hai thì phải nỗ lực, cố gắng gấp ba”, quyết tâm thực hiện "mục tiêu kép"; phấn đấu hoàn thành mức cao nhất các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ đã đề ra trong điều kiện “bình thường mới”.
Về một số trọng tâm chỉ đạo, điều hành nổi bật, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ luôn chấp hành nghiêm túc sự lãnh đạo của Đảng, sự giám sát của Quốc hội; luôn nêu cao tinh thần đoàn kết, trách nhiệm trước Nhân dân và đất nước, thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật; chủ động, tích cực đổi mới, cải cách mạnh mẽ, linh hoạt, sáng tạo, quyết liệt trong điều hành, vừa thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ trọng tâm, vừa xử lý kịp thời những vấn đề đột xuất, phát sinh, trong đó nổi bật là:
1. Chủ động, quyết liệt, ứng phó kịp thời, ngăn chặn, kiểm soát tốt đại dịch COVID-19; tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai.
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chủ động đánh giá đúng tình hình, coi phòng, chống dịch COVID-19 là nhiệm vụ chính trị đặc biệt quan trọng; đề ra các giải pháp kịp thời, kiên quyết, sớm hơn và cao hơn mức khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới và phù hợp diễn biễn dịch với phương châm “4 tại chỗ”. Chú trọng thực hiện chiến lược ngăn chặn dịch từ bên ngoài, khoanh vùng dập dịch triệt để; điều trị hiệu quả các ca nhiễm; tự chủ trong sản xuất vật tư, trang thiết bị y tế, nhất là việc phát triển sản xuất vắc-xin COVID-19. Huy động, phát huy sức mạnh đoàn kết của cả hệ thống chính trị, cộng đồng xã hội, đặc biệt là sự cống hiến, không quản ngại khó khăn, nguy hiểm của đội ngũ y bác sỹ, lực lượng quân đội, công an, tạo nên sức mạnh tổng hợp ngăn chặn thành công dịch COVID-19.
Từ đầu nhiệm kỳ, Thủ tướng Chính phủ đã quán triệt chủ trương “không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế”; “kiên quyết đóng cửa rừng tự nhiên”. Tăng cường công tác giám sát, phát hiện và xử lý kịp thời các vấn đề môi trường.
Đặc biệt, Chính phủ đã chỉ đạo khắc phục sự cố môi trường tại 4 tỉnh ven biển miền Trung. Tăng cường quản lý chất thải rắn, ngăn chặn rác thải nhựa. Chuyển từ bị động ứng phó sang chủ động phòng ngừa trong phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu. Triển khai sớm các giải pháp cấp bách kiểm soát hạn hán, xâm nhập mặn, nhất là vùng đồng bằng sông Cửu Long nên diện tích lúa bị thiệt hại năm 2020 chỉ bằng 9,6% so với năm 2016. Tập trung chỉ đạo với phương châm “4 tại chỗ” để chủ động ứng phó thiên tai, cứu hộ, cứu nạn tại các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên; rà soát, cập nhật các kịch bản phòng, chống thiên tai, lũ lụt, sạt lở đất; kịp thời ban hành chính sách hỗ trợ khắc phục thiệt hại.
2. Hỗ trợ, chia sẻ khó khăn với người dân, doanh nghiệp do đại dịch Covid 19; bảo đảm an sinh xã hội và ổn định đời sống cho nhân dân.
Năm 2020, trước tác động của dịch COVID-19, với tinh thần nhất quán “không để ai bị bỏ lại phía sau”, Chính phủ đã kịp thời báo cáo Bộ Chính trị, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua và triển khai nhiều giải pháp, chính sách hỗ trợ vượt trội, chưa từng có tiền lệ về tài khóa, tín dụng, bảo hiểm xã hội, giảm giá điện, giá cước viễn thông... Tăng cường bảo hộ công dân, tổ chức các chuyến bay đón hơn 75.000 người Việt Nam về nước an toàn. Giai đoạn 2016-2020, các chính sách an sinh, phúc lợi xã hội, giảm nghèo được quan tâm thực hiện đầy đủ; triển khai tích cực Đề án và chủ trương đầu tư phát triển KTXH vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
3. Củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô, thúc đẩy các động lực tăng trưởng, phục hồi và phát triển kinh tế trong khi kinh tế thế giới đi vào suy thoái. Ngay từ đầu nhiệm kỳ, Chính phủ luôn kiên định, nhất quán mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát; điều hành đồng bộ, linh hoạt các chính sách kinh tế vĩ mô, nhất là phối hợp hài hòa chính sách tài khóa và tiền tệ; theo dõi sát tình hình, chủ động xây dựng, cập nhật kịch bản tăng trưởng với phương án, giải pháp kịp thời, phù hợp, đặc biệt là kịch bản phục hồi kinh tế năm 2020 để tận dụng tốt thời cơ, giảm thiểu tác động tiêu cực của đại dịch COVID-19. Công tác giải ngân vốn đầu tư công gắn với đẩy nhanh tiến độ các dự án quan trọng quốc gia là nhiệm vụ xuyên suốt của giai đoạn 2016-2020; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo đổi mới toàn diện công tác giao, điều chỉnh kế hoạch vốn đầu tư công; đề xuất Quốc hội cho phép Chính phủ linh hoạt trong việc giao vốn, điều chuyển vốn đầu tư công. Riêng năm 2020, Chính phủ đã tổ chức 03 Hội nghị trực tuyến toàn quốc; thành lập 07 đoàn công tác kiểm tra, đôn đốc công tác này.
Khơi thông xuất khẩu, đặc biệt là trong bối cảnh thương mại toàn cầu suy giảm nghiêm trọng; thúc đẩy phát triển bền vững thị trường nội địa. Chính phủ chỉ đạo cơ cấu lại thị trường, mặt hàng xuất khẩu theo hướng đa dạng hóa thị trường; kịp thời tháo gỡ khó khăn phát sinh, hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận thị trường mới thông qua các hiệp định thương mại tự do. Qua đó, duy trì mức xuất siêu tăng dần qua các năm; xuất siêu kỷ lục năm 2020 dù bị ảnh hưởng nặng nề của dịch Covid 19. Chú trọng phát triển thị trường nội địa, thực hiện hiệu quả Cuộc vận động Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam, tăng cường kết nối cung cầu hàng hoá giữa khu vực nông thôn và thành thị, phát triển thương mại điện tử, bảo đảm cung cầu hàng hóa trong mọi tình huống. Tăng cường quản lý thị trường, phòng chống buôn lậu, hàng giả và gian lận thương mại.
4. Khai thác, phát huy tiềm năng, thế mạnh của từng ngành, từng địa phương và từng vùng; khơi dậy tinh thần khởi nghiệp, thu hút các nguồn lực cho phát triển. Nông nghiệp tiếp tục khẳng định vai trò trụ đỡ của nền kinh tế. Trước tác động kép thiên tai, dịch bệnh, Chính phủ đã tập trung chỉ đạo các giải pháp ổn định sản xuất nông nghiệp; năm 2020 sản xuất lúa được mùa, được giá, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia và phục vụ xuất khẩu. Hoàn thành mục tiêu xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016-2020 trước gần 2 năm. Tập trung tháo gỡ khó khăn, khôi phục chuỗi cung ứng, phát triển công nghiệp hỗ trợ, chế biến, chế tạo, tạo động lực cho phục hồi, phát triển kinh tế. Bước đầu hình thành hệ sinh thái công nghiệp hỗ trợ, tăng tỷ lệ nội địa hóa, điển hình là ngành công nghiệp ô tô.
Với phương châm Chính phủ đồng hành cùng doanh nghiệp, ngay từ đầu nhiệm kỳ và hằng năm, Thủ tướng Chính phủ gặp gỡ, đối thoại với cộng đồng doanh nghiệp, đề ra các giải pháp hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp. Tập trung hoàn thiện các chính sách phát triển kinh tế tư nhân, kinh tế tập thể theo tinh thần Nghị quyết của Đảng. Trong bối cảnh đại dịch COVID-19, Thủ tướng CP đã tổ chức Hội nghị trực tuyến để bàn các giải pháp cùng doanh nghiệp “nỗ lực, vượt thách thức, đón thời cơ, phục hồi nền kinh tế”, tiếp tục duy trì tinh thần hứng khởi kinh doanh trong toàn xã hội. Đẩy mạnh cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Thành lập Tổ công tác về đầu tư để đón đầu làn sóng đầu tư mới từ nước ngoài. Chính phủ đã khẩn trương rà soát, hoàn thiện việc lập quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh; đánh giá thực trạng các vùng kinh tế trọng điểm, đề ra giải pháp đổi mới cơ chế, chính sách điều phối liên kết vùng; trình Quốc hội ban hành cơ chế, chính sách, mô hình đặc thù đối với một số địa phương, tạo lan tỏa phát triển. Đẩy mạnh triển khai Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển. Chấn chỉnh công tác quy hoạch xây dựng, phát triển đô thị theo hướng tăng trưởng xanh, đô thị thông minh.
5. Tập trung rà soát, tháo gỡ các điểm nghẽn về thể chế; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Giai đoạn 2016-2020, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xác định công tác xây dựng pháp luật là khâu đột phá, đã ưu tiên, dành nhiều thời gian cho công tác này, nhất là tại phiên họp Chính phủ thường kỳ và 7 phiên họp chuyên đề. Chính phủ đã đổi mới tư duy, quy trình xây dựng chính sách, pháp luật theo hướng kiến tạo, tạo hành lang, khuyến khích phát triển, một văn bản sửa nhiều văn bản, cắt giảm tối đa văn bản quy định chi tiết, ban hành văn bản mới phải bãi bỏ ít nhất một văn bản cũ. Chính phủ đã trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành và ban hành theo thẩm quyền hệ thống pháp luật tương đối đồng bộ, đáp ứng yêu cầu đổi mới và phát triển đất nước. Thủ tướng CP đã thành lập Tổ công tác rà soát mâu thuẫn trong các văn bản quy phạm pháp luật để báo cáo Quốc hội. Lần đầu tiên, Chính phủ tổ chức Hội nghị toàn quốc đánh giá toàn diện công tác xây dựng, thi hành pháp luật giai đoạn 2016 - 2020 và Thủ tướng CP đã ban hành chỉ thị để tiếp tục tăng cường hiệu quả công tác này.
Chính phủ thực hiện nghiêm túc chương trình, kế hoạch công tác trọng tâm của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng; chỉ đạo tăng cường thanh tra, kiểm tra các lĩnh vực có nguy cơ phát sinh tham nhũng; phát hiện, xử lý nhiều vụ việc vi phạm, thu hồi số lượng lớn tiền và tài sản; ban hành cơ sở pháp lý cho việc kiểm soát tài sản thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn; nâng cao hiệu quả công tác tiếp dân. Thủ tướng CP đã thành lập Tổ công tác đặc biệt và đã giải quyết dứt điểm nhiều vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp, kéo dài; số vụ việc khiếu nại, tố cáo và số đoàn đông người giảm, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân. Xử lý hiệu quả các tranh chấp đầu tư quốc tế, giảm thiểu thiệt hại cho nhà nước.
6. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính gắn với xây dựng Chính phủ điện tử; đổi mới phương thức làm việc, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Với phương châm “lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ”, giai đoạn 2016-2020, Chính phủ, Thủ tướng CP chú trọng đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, xây dựng Chính phủ điện tử, cải thiện môi trường kinh doanh; thực hiện thủ tục hành chính trên môi trường điện tử, giảm giấy tờ; đổi mới công tác điều hành dựa trên nền tảng dữ liệu số. Tiếp tục phát huy hiệu quả của các hệ thống thông tin chỉ đạo, điều hành và phục vụ người dân, doanh nghiệp. Chính phủ đã ban hành 71 văn bản quy phạm pháp luật để cắt giảm, đơn giản hóa điều kiện kinh doanh, thủ tục kiểm tra chuyên ngành.
Chính phủ tập trung hoàn thiện khung pháp lý; chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương rà soát, kiện toàn tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, giảm bớt chồng chéo chức năng, nhiệm vụ; cơ cấu lại, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức gắn với tinh giản biên chế theo tinh thần Nghị quyết của Trung ương; đẩy mạnh phân cấp quản lý nhà nước. Thủ tướng Chính phủ đã thành lập Tổ công tác kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao và Tổ công tác về kiểm tra công vụ, qua đó kỷ luật công vụ và kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao có nhiều chuyển biến tích cực.
7. Quan tâm phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội, cải thiện chất lượng cuộc sống của Nhân dân; tăng cường thông tin, truyền thông tạo đồng thuận xã hội.
Phát huy, lan tỏa mạnh mẽ giá trị văn hóa, con người Việt Nam và sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, khơi dậy tinh thần yêu nước, niềm tự hào dân tộc thông qua các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thông tin, tuyên truyền nhân dịp kỷ niệm ngày lễ lớn của đất nước và trong cuộc chiến chống đại dịch COVID-19, khắc phục hậu quả thiên tai, bão lũ.... Tiếp tục đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo; tổ chức dạy học trực tuyến và kỳ thi năm 2020 bảo đảm an toàn, nghiêm túc, khách quan, thuận lợi trong điều kiện dịch bệnh. Tăng cường ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin trong khám, chữa bệnh; nâng cao năng lực y tế cơ sở. Đẩy mạnh khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, khuyến khích xã hội hóa. Tích cực xây dựng, triển khai chính sách khuyến khích phát triển Trung tâm Đổi mới sáng tạo quốc gia. Thu hút, trọng dụng cá nhân trong nước, nước ngoài và người Việt Nam ở nước ngoài tham gia hoạt động khoa học công nghệ tại Việt Nam.
8. Tăng cường quốc phòng, an ninh; chủ động, sáng tạo, hiệu quả trong hoạt động đối ngoại, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Chủ động nắm chắc tình hình, không để bị động, bất ngờ, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền của Tổ quốc; giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội. Bảo vệ tuyệt đối an ninh, an toàn các mục tiêu, sự kiện chính trị, văn hóa, xã hội, đối ngoại quan trọng của đất nước, nhất là Đại hội đảng bộ các cấp, Hội nghị cấp cao ASEAN... Trong giai đoạn 2016-2020, Việt Nam đã tham gia tích cực vào các diễn đàn khu vực và quốc tế quan trọng, nổi bật là việc tổ chức thành công năm APEC Việt Nam 2017, Hội nghị Diễn đàn Kinh tế thế giới về ASEAN 2018; đảm nhiệm tốt vai trò Ủy viên không Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020-2021; tổ chức thành công cuộc gặp Thượng đỉnh Mỹ - Triều Tiên lần thứ 2 tại Hà Nội và đặc biệt là vai trò Chủ tịch ASEAN 2020. Tiếp tục làm sâu sắc thêm các mối quan hệ song phương, tăng cường quan hệ với các nước lớn, các đối tác quan trọng. Tích cực thúc đẩy đàm phán, ký kết, phê chuẩn và triển khai hiệu quả 14 hiệp định thương mại tự do, trong đó có các hiệp định tiêu chuẩn cao, thị trường rộng lớn như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - EU (EVFTA), Hiệp định Đối tác toàn diện khu vực (RCEP).
Về tồn tại, hạn chế, kỷ cương, kỷ luật hành chính, đổi mới lề lối làm việc trong một số cơ quan, đơn vị chưa đáp ứng yêu cầu. Việc tổ chức thực hiện pháp luật còn chậm. Trách nhiệm của một số bộ, ngành trong phối hợp xử lý công việc chưa cao. Còn thiếu quyết liệt chưa chủ động tìm hướng đi mới, chậm phản ứng trước những vấn đề phát sinh.
Về một số bài học kinh nghiệm, Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh nêu rõ:
Một là, luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự giám sát của Quốc hội; huy động và phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nhân dân cả nước. Hai là, coi trọng công tác dự báo, bám sát thực tiễn; thống nhất cao trong nhận thức và hành động; đề cao tính chủ động, đổi mới, sáng tạo và phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa các cấp, các ngành.
Ba là, khơi dậy truyền thống, phát huy mạnh mẽ giá trị văn hóa tốt đẹp, tinh thần nhân ái và niềm tự hào dân tộc, khát vọng phát triển và vươn lên mạnh mẽ. Bốn là, phát huy tiềm năng, thế mạnh của từng ngành, từng địa phương; xây dựng nền kinh tế tự lực, tự cường, đổi mới, hội nhập và phát triển. Năm là, biến thách thức thành cơ hội, đổi mới tư duy, cách làm với phương châm phục vụ người dân, doanh nghiệp; tận dụng các cơ hội của Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 thích ứng nhanh với bối cảnh mới.
Về phương hướng, nhiệm vụ năm 2021, với ý nghĩa đặc biệt quan trọng của năm 2021, Chính phủ đề cao tinh thần đoàn kết, kỷ cương; yêu cầu từng bộ, ngành, địa phương tiếp tục tập trung thực hiện “mục tiêu kép”, không lơ là, chủ quan trước đại dịch; tranh thủ thời cơ, nỗ lực phục hồi và phát triển KTXH trong trạng thái bình thường mới với khát vọng phát triển, tinh thần đổi mới sáng tạo, cải cách mạnh mẽ, quyết liệt hành động hơn nữa. Phát huy trách nhiệm người đứng đầu, quyết tâm phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ của năm 2021, tạo nền tảng vững chắc thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm.
Năm 2021: 8 trọng tâm chỉ đạo, điều hành, 185 nhiệm vụ cụ thể
Trình bày về dự thảo Nghị quyết của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển KTXH và Dự toán NSNN năm 2021, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng cho biết: Năm 2021 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là năm tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, bầu cử Quốc hội khóa XV, bầu cử HĐND các cấp và là năm đầu tiên thực hiện Chiến lược phát triển KTXH 10 năm 2021-2030; Kế hoạch phát triển KTXH 5 năm 2021-2025, và các kế hoạch theo các nghị quyết của Đảng, Quốc hội.
Dự báo tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường; đại dịch Covid-19 chưa thể sớm kết thúc, tác động tiêu cực có thể kéo dài.
Trong nước, tác động của dịch bệnh, biến đổi khí hậu, thiên tai, hạn hán, xâm nhập mặn tiếp tục diễn biến phức tạp; yêu cầu cho đầu tư phát triển, phòng, chống dịch, bảo đảm an sinh xã hội rất lớn trong khi nguồn lực còn hạn chế.
Các xu hướng mới về dịch chuyển đầu tư, thương mại, chuyển đổi số, sự thay đổi nhanh chóng của các mô hình kinh doanh, phương thức sản xuất, tiêu dùng, giao tiếp xã hội, khoa học công nghệ… vừa là thời cơ, vừa là thách thức, đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới tư duy phát triển, hành động quyết liệt, hiệu quả hơn trong năm 2021.
Chính phủ xác định phương châm hành động của năm 2021 là: "Đoàn kết, kỷ cương, đổi mới sáng tạo, quyết liệt hành động, khát vọng phát triển " và đề ra 08 trọng tâm chỉ đạo, điều hành:
(1) Chuẩn bị chu đáo, kỹ lưỡng để phục vụ tổ chức thành công Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, bầu cử Quốc hội khoá XV và bầu cử HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2026.
(2) Thực hiện hiệu quả "mục tiêu kép" vừa phòng, chống dịch bệnh, vừa phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội trong trạng thái bình thường mới.
Phối hợp chặt chẽ, hiệu quả và đồng bộ các chính sách vĩ mô để kích thích tổng cầu phù hợp, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng trưởng, đồng thời giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn.
Theo dõi sát diễn biến, tình hình trong nước và quốc tế, kịp thời dự báo và chuẩn bị phương án, kịch bản, biện pháp, đối sách ứng phó hiệu quả với những biến động, vấn đề mới phát sinh.
(3) Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập. Đổi mới quản trị quốc gia. Xây dựng bộ máy Nhà nước pháp quyền XHCN tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật gắn với thực thi nghiêm pháp luật. Nâng cao hiệu quả phòng, chống tham nhũng, lãng phí và giải quyết khiếu nại, tố cáo.
(4) Quyết liệt thực hiện cải cách hành chính, trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính, bảo đảm hiệu quả, thực chất gắn với đẩy mạnh thực hiện chuyển đổi số quốc gia, cung cấp các dịch vụ công cho người dân, doanh nghiệp; tạo môi trường kinh doanh thuận lợi hơn, thu hút mạnh mẽ đầu tư, thúc đẩy doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo.
(5) Phát huy mạnh mẽ giá trị văn hoá, trí tuệ con người Việt Nam; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, ý chí tự cường, niềm tự hào dân tộc.
Đổi mới toàn diện, nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, chú trọng phát triển nhân lực chất lượng cao.
Phát triển mạnh mẽ khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Bảo đảm an sinh xã hội và cải thiện đời sống nhân dân.
Tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, phòng, chống thiên tai, dịch bệnh và thích ứng với biến đổi khí hậu.
(6) Tiếp tục hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội đồng bộ, hiện đại. Phát triển mạnh hạ tầng số.
Đẩy nhanh tiến độ các công trình, dự án trọng điểm quốc gia, các dự án liên kết vùng, bảo đảm an ninh nguồn nước, an toàn hồ, đập;
Phát huy vai trò các vùng kinh tế trọng điểm, các đô thị lớn.
(7) Củng cố quốc phòng, an ninh; đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế; giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển nhanh, bền vững; nâng cao vị thế, uy tín của nước ta trên trường quốc tế.
(8) Làm tốt công tác thông tin, truyền thông, kịp thời phản ánh, lan tỏa các nhân tố tích cực để tạo niềm tin, đồng thuận trong toàn xã hội.
Nâng cao hiệu quả công tác phối hợp giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Các chỉ tiêu KTXH năm 2021 gồm:
a) 12 chỉ tiêu chủ yếu theo Nghị quyết số 124/2020/QH14 của Quốc hội và mục tiêu phấn đấu của Chính phủ (Phụ lục 1).
b) 96 chỉ tiêu cụ thể cho các ngành, lĩnh vực (Phụ lục 3). Đây là các chỉ tiêu cụ thể mà Chính phủ đặt ra cho các ngành, lĩnh vực bên cạnh 12 chỉ tiêu chủ yếu Quốc hội giao.
c) Kịch bản tăng trưởng năm 2021 (Phụ lục 2) chia theo từng quý và cả năm.
Nghị quyết đề ra 11 nhóm nhiệm vụ giải pháp chủ yếu và 185 nhiệm vụ cụ thể tại Phụ lục 4.
Các nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu là:
(1) Triển khai đồng bộ, kịp thời, hiệu quả các nhiệm vụ để phục vụ tổ chức thành công Đại hội Đảng, bầu cử Quốc hội khoá XV và Hội đồng nhân dân các cấp;
Xây dựng, ban hành ngay các chương trình hành động, kế hoạch công tác để thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng và các nghị quyết của Đảng, Quốc hội.
(2) Tiếp tục thực hiện linh hoạt, hiệu quả “mục tiêu kép” vừa phòng, chống dịch, vừa phục hồi và phát triển kinh tế.
Đẩy nhanh việc nghiên cứu, hợp tác quốc tế trong phát triển vắc-xin và có giải pháp để người dân tiếp cận vắc-xin phòng dịch Covid-19 sớm nhất.
Kiểm soát chặt chẽ, ngăn chặn hiệu quả nguồn bệnh xâm nhập từ bên ngoài, xem xét mở lại các đường bay thương mại quốc tế khi điều kiện cho phép.
Chủ động bố trí nguồn lực, triển khai kịp thời, phù hơp các giải pháp để tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp, người dân, người lao động bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch.
(3) Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo thuận lợi cho phục hồi và thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững.
Điều hành chủ động, phối hợp chặt chẽ các chính sách, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn.
(4) Đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tính tự chủ và sức cạnh tranh của nền kinh tế dựa trên nền tảng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo.
Thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện, đẩy nhanh tiến độ xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ số, phát triển nền kinh tế số, xã hội số. Bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng.
Nâng cao chất lượng và tích hợp cung cấp dịch vụ công trên Cổng dịch vụ công quốc gia.
Phát triển mạnh mẽ kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, thúc đẩy khởi nghiệp, sáng tạo.
(5) Tăng cường huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển; đẩy nhanh tiến độ lập, phê duyệt các quy hoạch, kế hoạch, công tác chuẩn bị đầu tư và triển khai các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội trọng điểm, đặc biệt là các dự án hạ tầng giao thông, hạ tầng đô thị, năng lượng.
Phát triển kinh tế biển; tăng cường liên kết vùng; quản lý và phát triển đô thị. Hoàn thiện cơ chế, chính sách và bố trí nguồn lực phù hợp cho xây dựng nông thôn mới.
(6) Nâng cao chất lượng và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực. Chú trọng đào tạo nhân lực chất lượng cao, có giải pháp thu hút, bồi dưỡng nhân tài. Đẩy nhanh thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo.
Đổi mới cơ chế quản lý, cơ chế tài chính đối với các nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Phát huy vai trò hệ thống các trung tâm đổi mới sáng tạo.
(7) Phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, gắn kết hài hòa với phát triển kinh tế.
Nâng cao trình độ, thành tích của thể thao thành tích cao. Tổ chức tốt việc đăng cai SeaGames 31 và ASEAN Para Games 31. Bảo đảm an ninh y tế, an toàn thực phẩm, chất lượng tiêm chủng, khám, chữa bệnh.
Phát triển hệ thống chính sách xã hội toàn diện, bao trùm và bền vững; bảo đảm việc làm, thu nhập, an sinh xã hội cho người dân; thực hiện đồng bộ, hiệu quả các chính sách về giảm nghèo, chính sách ưu đãi đối với người có công với cách mạng và trợ giúp các đối tượng yếu thế trong xã hội.
Triển khai thực hiện kịp thời các nhiệm vụ về công tác dân tộc trong tình hình mới.
(8) Quản lý, khai thác, sử dụng hiệu quả, bền vững tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai.
Thúc đẩy mô hình kinh tế tuần hoàn.
(9) Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị.
Tăng cường phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Thực hiện có hiệu quả công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo.
(10) Củng cố quốc phòng, an ninh, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và môi trường hòa bình, ổn định và thuận lợi cho phát triển đất nước.
Tăng cường các nguồn lực thực hiện mục tiêu hiện đại hóa quân đội, bảo đảm quốc phòng, an ninh kết hợp chặt chẽ với phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nhất là trên các tuyến biên giới, biển đảo, địa bàn chiến lược, trọng điểm.
Bảo đảm tuyệt đối an ninh, an toàn các mục tiêu, sự kiện quan trọng của đất nước.
(11) Đẩy mạnh thông tin truyền thông, tạo niềm tin, đồng thuận xã hội. Nâng cao hiệu quả công tác dân vận; thực hiện quy chế dân chủ cơ sở; tăng cường phối hợp công tác giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị.
Về tổ chức thực hiện, dự thảo Nghị quyết yêu cầu Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phải cụ thể hoá Nghị quyết bằng cac chương trình hành động cụ thể của bộ, ngành, địa phương mình để tổ chức thực hiện.
Các Bộ, ngành phải làm tốt công tác tham mưu cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, cũng như thực hiện tốt công tác quản lý ngành, lĩnh vực để đảm bảo thực hiện thành công Nghị quyết của Chính phủ về phát triển KTXH, NSNN năm 2021.
Nhiều chỉ số môi trường kinh doanh tiến bộ vượt bậc
Báo cáo tóm lược Kết quả thực hiện Nghị quyết số 02/NQ-CP năm 2020 và Dự thảo Nghị quyết 02/NQ-CP năm 2021 về cải thiện môi trường kinh doanh và âng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam cho biết:
Thực hiện các Chương trình cải cách hành chính đặc biệt là cải cách thủ tục hành chính, các cấp ủy Đảng, chính quyền đã nỗ lực tháo gỡ nhiều khó khăn vướng mắc, khai thông nguồn lực trong xã hội, thu hút đầu tư từ bên ngoài. Việt nam luôn được coi là một địa điểm đầu tư hấp dẫn và là nền kinh tế năng động, có độ mở lớn và duy trì tốc độ tăng trưởng thuộc nhóm cao trên thế giới. Từ đầu nhiệm kỳ Chính phủ đã xác định cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, hướng tới phát triển bền vững là một trọng tâm cải cách, là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên.
Từ năm 2014, hàng năm Chính phủ đã ban hành Nghị quyết về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia (những năm đầu là Nghị quyết 19/CP và từ năm 2019 là Nghị quyết 02/CP) với các mục tiêu, giải pháp rất cụ thể, bám sát vào các bộ chỉ số của các tổ chức quốc tế có uy tín. Bước sang nhiệm kỳ này, phù hợp với Chương trình Nghị sự vì sự phát triển bền vững của Liên hợp quốc, Nghị quyết của Chính phủ đã mở rộng bao quát thêm các bộ chỉ số hàm chứa những yếu tố có tính căn bản, nền tảng, dài hơi hơn ngoài các chỉ số liên quan tới môi trường kinh doanh trong ngắn hạn như các bộ chỉ số về Phát triển nguồn nhân lực, phát triển Chính phủ điện tử, Năng lực Đổi mới sáng tạo. Nghị quyết 02/CP năm 2020 được xây dựng dựa trên 7 bộ chỉ số với trên 200 tiêu chí đo lường chi tiết liên quan tới hầu hết các lĩnh vực, các ngành, các cấp và có phân công cụ thể cơ quan chịu trách nhiệm cho từng nhóm tiêu chí; thậm chí từng tiêu chí quan trọng.
Các Nghị quyết 19/CP và sau này là Nghị quyết 02/CP của Chính phủ đã nhận được sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, quyết liệt của các cấp ủy Đảng, chính quyền từ trung ương tới địa phương; sự hưởng ứng của cộng đồng doanh nghiệp, sự tham gia của toàn xã hội. Qua đó đã góp phần hoàn thiện thêm một bước thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; tháo gỡ được nhiều rào cản, khó khăn vướng mắc cho doanh nghiệp và người dân. Phần lớn các chỉ số được đánh giá định kỳ 1 năm hoặc 2 năm của các tổ chức quốc tế đều ghi nhận sự tiến bộ rõ về điểm số tuyệt đối và cải thiện thứ hạng của Việt Nam.
Trực tiếp nhất là thứ hạng môi trường kinh doanh của Việt Nam tăng 20 bậc, từ thứ 90 năm 2015 lên thứ 70 năm 2019. Xếp hạng Năng lực cạnh tranh được thay đổi cách đánh giá từ năm 2018 thành Năng lực cạnh tranh 4.0. Khi đó Việt Nam đứng thứ 77. Một năm sau vị trí của chúng ta đã tăng 10 bậc lên thứ 67.
Năng lực cạnh tranh du lịch tăng 12 bậc, từ thứ 75 năm 2015 lên thứ 63 năm 2019. Xếp hạng Hiệu quả logistics tăng 25 bậc, từ thứ 64 năm 2016 lên thứ 39. Xếp hạng Đổi mới sáng tạo toàn cầu tăng 17 bậc từ thứ 59 năm 2016 lên thứ 42 năm 2020.
Trong các bộ chỉ số, các bảng xếp hạng quốc tế đó, có không ít chỉ số, tiêu chí cụ thể của nước ta ghi nhận những tiến bộ vượt bậc như: Tiếp cận điện năng tăng 81 bậc, từ thứ 108 (năm 2015) lên thứ 27 (năm 2019). Nộp thuế và BHXH tăng 59 bậc, từ thứ 168 (năm 2015) lên thứ 109 (năm 2019). Ứng dụng CNTT tăng 54 bậc, từ thứ 95 (năm 2015) lên thứ 41 (năm 2019) .v.v.
Đặc biệt, xếp hạng về phát triển bền vững tăng 34 bậc từ thứ 88 năm 2016 lên thứ 49 năm 2020. Đây là bộ chỉ số được Liên hợp quốc xây dựng, đánh giá dựa trên các tiêu chí bám sát 17 nhóm mục tiêu phát triển bền vững (với 169 mục tiêu cụ thể).
Cộng đồng doanh nghiệp trong nước cũng ghi nhận rất tích cực những kết quả, tiến bộ trong thực hiện các Nghị quyết này.
Bên cạnh những kết quả quan trọng, đáng khích lệ đó, vẫn còn không ít chỉ tiêu cụ thể mà điểm tuyệt đối và thứ hạng của Việt Nam vẫn còn thấp và hầu như không được cải thiện về thứ bậc như: Giải quyết phá sản doanh nghiệp đứng thứ 122. Rào cản phi thuế quan đứng thứ 121. Bảo vệ hệ sinh thái bền vững đứng thứ 110. Đăng ký tài sản thứ 106. Bảo vệ sở hữu trí tuệ thứ 105. Kết nối hạ tầng đường bộ thứ 104. Ngay nộp thuế và bảo hiểm dù đã tăng tới 59 bậc nhưng vẫn đứng thứ 109.
Thực tế những năm qua cho thấy Bộ, ngành nào chủ động, quyết tâm thì các chỉ số được cải thiện rõ ràng hơn và ngược lại. Tới đây, việc cải thiện vị trí càng khó và đòi hỏi nỗ lực cao hơn vì các quốc gia, nên kinh tế khác cũng rất chú trọng công tác này. Mặt khác, nhiều tiêu chí, chỉ số không chỉ đơn thuần liên quan tới thủ tục hành chính có thể nhận diện, sửa đổi hoặc bãi bỏ ngay mà còn phải sửa luật và ngày càng có nhiều chỉ số phải nỗ lực liên tục trong một số năm mới có thể cải thiện được, nhất là liên quan tới hạ tầng, nhân lực và các yếu tố xã hội.
Phó Thủ tướng cho biết, năm 2020 này, do ảnh hưởng của đại dịch Covid – 19, việc đánh giá xếp hạng của các tổ chức quốc tế có những thay đổi đáng kể và nhiều bảng xếp hạng không được công bố. Trong nước, thực hiện “mục tiêu kép” các nỗ lực thực hiện Nghị quyết 02/CP không hề giảm. Thậm chí nhiều nhiệm vụ đã được thúc đẩy mạnh mẽ hơn (như dịch vụ công trực tuyến, thương mại điện tử, thanh toàn không dùng tiền mặt…). Xác định năm 2021 sẽ là năm bắt đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 13, thực hiện Chiến lược phát triển KTXH 10 năm 2021-2030, Kế hoạch phát triển KTXH 5 năm 2021-2025 nên Nghị quyết 02/CP năm 2020 cũng đã đề ra các nhiệm vụ, mục tiêu phấn đấu cụ thể cho năm 2020 và định hướng cho năm 2021.
Nghị quyết 02/2021 được xây dựng ngắn gọn hơn rất nhiều so với các Nghị quyết trước đây, khẳng định tiếp tục thực hiện động bộ tất cả các mục tiêu giải pháp đã nêu trong Nghị quyết 02/CP năm 2019 và 2020; đồng thởi đặt trọng tâm vào một số nhóm chỉ tiêu, tiêu chí cụ thể cần tập trung cao độ để chỉ đạo thực hiện nhằm tạo hiệu ứng lan tỏa nhanh tới các tiêu chí khác.
Đó là 7 nhóm chỉ tiêu về môi trường kinh doanh, bao gồm: Cấp phép xây dựng (A3), Đăng ký tài sản (A7), Giải quyết tranh chấp hợp đồng (A9), Giải quyết phá sản doanh nghiệp (A10), Chất lượng quản lý hành chính đất đai (B3), Ứng dụng công nghệ thông tin (B5), Chất lượng đào tạo nghề (B6) và 10 tiêu chí cụ thể. Cùng với đó là 10 chỉ tiêu cụ thể về năng lực cạnh tranh 4.0 và đổi mới sáng tạo, bao gồm: Chất lượng hành chính đất đai, Chất lượng đào tạo nghề, Kỹ năng của sinh viên, Rào cản phi thuế quan, Đăng ký phát minh sáng chế, Kiểm soát tham nhũng, Mức độ tiếp cận CNTT, Mức độ tham gia giao dịch trực tuyến, Cơ hội việc làm trong các ngành thâm dụng tri thức, Môi trường trong bền vững sinh thái.
Nghị quyết cũng nhấn mạnh 4 bốn nội dung trọng tâm trong chỉ đạo thực hiện Nghị quyết, gồm:
(1) Tập trung khắc phục những yếu kém, hạn chế trong việc kết nối, phối hợp giữa các cơ quan; làm rõ hơn vai trò cơ quan đầu mối cho từng nhóm chỉ tiêu, từng chỉ tiêu; phân định và quy trách nhiệm rõ ràng hơn cho từng cơ quan.
(2) Tập trung chỉ đạo chuyển đổi số theo Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03 tháng 6 năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” đồng bộ với thực hiện cải cách hành chính; đảm bảo thiết thực, hiệu quả gắn với các giải pháp tăng mức độ sẵn sàng với nền sản xuất mới trong thời kỳ CMCN lần thứ IV.
(3) Có chiến lược, kế hoạch trung, dài hạn với mục tiêu rõ ràng, bước đi cụ thể, kiên trì để tạo chuyển biến vững chắc đối với các tiêu chí có tính chất nền tảng, nhưng khó cải thiện trong thời gian ngắn như bảo vệ môi trường sinh thái, giảm nghèo đa chiều, phát triển vùng núi, vùng sâu, vùng xa v.v. phấn đầu giữ vững và cải thiện thứ hạng phát triển bền vững đồng thời phát triển nhanh cộng đồng doanh nghiệp phát triển bền vững (hiện mới có 2000 DN trong tổng số hơn 700.000 DN).
(4) Tiếp tục chú trọng hỗ trợ doanh nghiệp và người dân phục hồi sản xuất kinh doanh, khắc phục các tác động tiêu cực của dịch bệnh COVID-19. Trên đây là báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết số 02/NQ-CP năm 2020 về thực hiện nhiệm vụ, giải pháp cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và Dự thảo Nghị quyết số 02/NQ-CP năm 2021.
Quyết tâm cùng Chính phủ thực hiện bằng được "mục tiêu kép"
Phát biểu ý kiến tại Hội nghị, lãnh đạo các địa phương đều đồng tình, thống nhất cao với nội dung các báo cáo tình hình kinh tế - xã hội 2020 và những giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2021.
Chủ tịch UBND TP. Hà Nội Chu Ngọc Anh cho biết thành phố đã triển khai một cách nghiêm túc và chủ động, bám sát tinh thần chỉ đạo của Trung ương, Quốc hội, Chính phủ, về cơ bản Thành phố đã đạt được mục tiêu tổng quát, mục tiêu kép với những kết quả quan trọng, toàn diện trong đó nhiều chỉ tiêu hoàn thành và hoàn thành vượt mức.
Một số dấu ấn Thành phố như: Đã lãnh đạo tổ chức thành công Đại hội Đảng Hà Nội, được đánh giá là thực chất, trọn vẹn và tạo nhiều dấu ấn tốt đẹp; hiệu quả mục tiêu kép, TP đã kiểm soát, đẩy lùi được dịch bệnh trong cả 3 đợt; có giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô, nhiều hoạt động kết nối với các địa phương cung cầu hàng hóa, tổng sản phẩm trên địa bàn ước tăng 3,98%, quy mô nền kinh tế trên 44 tỷ USD, thu ngân sách ước thực hiện khoảng 280 nghìn tỷ đồng, tăng 3,9% so với thực hiện năm 2019…
Bên cạnh đó, Hà Nội tổ chức thành công nhiều hoạt động kỷ niệm các ngày lễ lớn của đất nước, của Thủ đô, thúc đẩy nhiều công trình hạ tầng giao thông, xử lý nhiều vấn đề dân sinh bức xúc, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững...
Năm 2021, thành phố Hà Nội thực hiện năm chủ đề: “Kỷ cương, trách nhiệm, hành động, sáng tạo, phát triển” và xây dựng 23 chỉ tiêu chủ yếu phát triển kinh tế, xã hội, trong đó, phấn đấu GRDP tăng khoảng 7,5%. Ngay từ đầu tháng 1/2021, thành phố Hà Nội sẽ ban hành Chương trình hành động triển khai thực hiện Nghị quyết của Chính phủ.
Ban Thường vụ Thành ủy Hà nội đã có 3 nội dung báo cáo về Bộ Chính trị: xung quanh định hướng điều chỉnh tổng thể quy hoạch chung xây dựng Hà Nội dự kiến tháng 12/2021 để báo cáo Bộ Chính trị; sửa đổi, bổ sung một số quy định của Luật Thủ đô dự kiến tháng 12/2021; báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 11 về phương hướng nhiệm vụ phát triển thủ đô giai đoạn 10 năm qua để chuẩn bị cho 10 năm tiếp theo.
Hà Nội đề nghị Chính phủ báo cáo với Quốc hội về việc triển khai kết hoạch đầu tư công trung hạn, theo Điều 89, Luật Đầu tư công, hiện nay có bất cập là dự án cho 2 kỳ kế hoạch đầu tư liên tiếp phải bảo đảm tổng số giá trị, tổng mức đầu tư của chương trình dự án được thực hiện kế hoạch đầu tư công của giai đoạn sau không vượt quá 20% giai đoạn trước; về Quy hoạch Hà Nội 10 năm 2021-2030 và tầm nhìn 2045 liên quan đến bố trí vốn, thẩm định dự toán; kiến nghị Bộ Nội vụ trình Chính phủ ban hành Nghị định hướng dẫn Nghị quyết 97 của Quốc hội thí điểm mô hình chính quyền đô thị trên địa bàn TP.Hà Nội...
Ông Nguyễn Thành Phong, Chủ tịch UBND TPHCM cho biết, Thành phố xác định chủ đề năm 2021 là: “Năm xây dựng chính quyền đô thị và cải thiện môi trường đầu tư”, với mục tiêu tổng quát là tiếp tục thực hiện mục tiêu kép của Chính phủ đã đề ra, đó là tập trung kiểm soát tốt lây nhiễm COVID-19 và triển khai có hiệu quả các chương trình hồi phục kinh tế trên các ngành, lĩnh vực; huy động hiệu quả mọi nguồn lực, không ngừng đổi mới, sáng tạo, đẩy mạnh chuyển đổi số, xây dựng Thành phố thông minh; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước, đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, xây dựng chính quyền đô thị; chú trọng phát triển văn hóa, nâng cao phúc lợi xã hội, xây dựng gia đình hạnh phúc; giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo quốc phòng - an ninh và trật tự an toàn xã hội.
Để thực hiện tốt phương châm hành động năm 2021 Chính phủ đề ra là “Đoàn kết, kỷ cương, đổi mới sáng tạo, quyết liệt hành động, khát vọng phát triển”, Thành phố xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2021 với 20 chỉ tiêu và 9 nội dung trọng tâm là:
(1) Tập trung triển khai thực hiện có hiệu quả chủ đề năm 2021 “Năm xây dựng chính quyền đô thị và cải thiện môi trường đầu tư”. Triển khai Kế hoạch thực hiện tổ chức chính quyền đô thị tại TPHCM theo Nghị quyết số 131 và Nghị định hướng dẫn của Chính phủ đảm bảo đúng tiến độ. Triển khai sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã và thành lập Thành phố Thủ Đức thuộc TPHCM, trong đó nghiên cứu các cơ chế, chính sách đặc thù để phát triển Thành phố Thủ Đức trình các cơ quan Trung ương thông qua. Dự kiến ngày 31/12/2020, TP sẽ tổ chức công bố Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc thành lập Thành phố Thủ Đức.
(2) Tiếp tục thực hiện mục tiêu kép của Chính phủ đã đề ra, tập trung kiểm soát tốt dịch bệnh COVID-19 và triển khai có hiệu quả các chương trình hồi phục kinh tế trên các ngành, lĩnh vực.
(3) Đảm bảo tiến độ thực hiện 51 chương trình nội dung, đề án thuộc 3 chương trình đột phá về đổi mới phát triển hạ tầng, phát triển nhân lực và văn hóa, chương trình trọng điểm về phát triển doanh nghiệp và khởi nghiệp sáng tạo và phát triển sản phẩm chủ lực của TP.
(4) Đẩy mạnh đổi mới, sáng tạo, chuyển đổi số tận dụng thời cơ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
(5) Đẩy mạnh thiết kế đô thị phục vụ quản lý quy hoạch, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ.
(6) Thực hiện đồng bộ các giải pháp bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai.
(7) Tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ trên các lĩnh vực văn hóa - xã hội.
(8) Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại, chủ động hội nhập quốc tế.
(9) Giữ vững ổn định an ninh chính trị, quốc phòng an ninh, đảm bảo trật tự an toàn xã hội, đảm bảo tuyệt đối an toàn các sự kiện chính trị ....
Nhằm tạo điều kiện thuận lợi hoàn thành nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 2021, tại Hội nghị hôm nay, Thành phố kiến nghị Chính phủ quan tâm, sớm ban hành Nghị định hướng dẫn thực hiện tổ chức chính quyền đô thị tại Thành phố theo Nghị quyết số 131 của Quốc hội trước ngày 1/1/2021. Hiện Thành phố rất chủ động và khẩn trương phối hợp với Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp hoàn chỉnh dự thảo để trình Chính phủ.
Để tiếp tục triển khai hiệu quả Nghị quyết 54 của Quốc hội về thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố kiến nghị Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành Trung ương sớm có hướng dẫn về Phương án sử dụng đất khi cổ phần hóa để Thành phố kịp triển khai công tác cổ phần hóa theo kế hoạch đề ra và đẩy nhanh tiến độ kê khai, phê duyệt phương án và thực hiện sắp xếp lại, xử lý nhà, đất thuộc sở hữu Nhà nước của các Bộ, ngành, Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước trên địa bàn TP để TP có thêm nguồn lực đầu tư phát triển.
Ban hành Nghị quyết 01 ngay từ ngày đầu năm mới
Hội nghị đánh giá, tổng kết lại 1 năm đã qua, nhìn lại cả chặng đường 5 năm và đề ra nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu để hoàn thành các mục tiêu phát triển trong năm 2021 cũng như các năm tiếp theo.
Sau khi Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc phát biểu khai mạc, Hội nghị nghe Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Trương Hòa Bình trình bày Báo cáo tóm tắt về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2020 và 5 năm 2016-2020; dự kiến phương hướng, nhiệm vụ thời gian tới. (chi tiết dưới đây)
Tiếp đó, Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh trình bày Báo cáo tóm tắt kiểm điểm công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ năm 2020 và 5 năm 2016-2020. (chi tiết dưới đây)
Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng giới thiệu Dự thảo Nghị quyết 01 của Chính phủ về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2021. (chi tiết dưới đây)
Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam giới thiệu Dự thảo Nghị quyết 02 của Chính phủ thực hiện nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2021. (chi tiết dưới đây)
Sau khi nghe các báo cáo nói trên và ý kiến phát biểu của lãnh đạo một số địa phương, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng phát biểu chỉ đạo Hội nghị.
Hội nghị cũng xem xét các Báo cáo đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết số 35/NQ-CP về hỗ trợ phát triển doanh nghiệp đến năm 2020 và đề xuất, kiến nghị giải pháp hỗ trợ, phát triển doanh nghiệp đến năm 2025, tầm nhìn 2030; Báo cáo kết quả thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng năm 2020; Báo cáo công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và đấu tranh phòng, chống tham nhũng năm 2020; Báo cáo tình hình thực hiện Nghị quyết số 17/NQ-CP về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển Chính phủ điện tử 2019 - 2021, định hướng 2025…
Chính phủ sẽ tiếp thu các ý kiến tại Hội nghị, hoàn thiện các văn bản, báo cáo, nhất là dự thảo Nghị quyết 01 để ban hành và tập trung thực hiện ngay từ ngày đầu tiên của năm 2021 với quyết tâm đạt kết quả cao nhất, tạo cơ sở, nền tảng cho cả giai đoạn 5 năm tới (2021-2025).