Tìm kiếm tin tức
Liên kết website
Sở, Ban, Ngành
UBND Huyện, Thị xã, Thành phố
Phát triển kinh tế số tại Việt Nam trong bối cảnh mới: Thách thức và một số giải pháp
Ngày cập nhật 14/11/2022

Chuyển đổi kinh tế số là xu hướng tất yếu trong bối cảnh khoa học công nghệ phát triển như vũ bão hiện nay. Không nằm ngoài xu thế đó, những năm qua, Việt Nam đã có những nỗ lực, hành động thiết thực để đẩy mạnh phát triển kinh tế số. Phát triển kinh tế số tại Việt Nam bước đầu đã mang lại nhiều kết quả thiết thực, tuy nhiên, yêu cầu thực tiễn cũng đặt một số vấn đề tồn tại, đòi hỏi Việt Nam cần có sự quyết tâm cũng như những giải pháp hữu ích hơn.

Khái quát về kinh tế số

Theo “Diễn đàn Kinh tế tư nhân Việt Nam năm 2019”, kinh tế số là toàn bộ hoạt động kinh tế dựa trên nền tảng số. Hoạt động phát triển kinh tế số là sử dụng công nghệ số cùng dữ liệu để tạo ra mô hình hợp tác, kinh doanh kiểu mới, phù hợp với xu thế phát triển của công nghệ hiện đại. Nhóm chuyên gia kinh tế số Oxford cho rằng: "Kinh tế số là một nền kinh tế vận hành chủ yếu dựa trên công nghệ số”, đặc biệt là các giao dịch điện tử tiến hành thông qua Internet. Kinh tế số bao gồm tất cả các lĩnh vực và nền kinh tế (công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ; sản xuất, phân phối, lưu thông hàng hóa, giao thông vận tải, logistic, tài chính ngân hàng…) mà công nghệ số được áp dụng.

Có thể khái quát, kinh tế số là các hoạt động kinh tế có sử dụng thông tin số, tri thức số như là yếu tố sản xuất chính; sử dụng mạng Internet, mạng thông tin làm không gian hoạt động; sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) để tăng năng suất lao động và tối ưu nền kinh tế.

Kinh tế số là một quá trình tiến hóa lâu dài, là quá trình chuyển đổi số trên bình diện quốc gia. Ở những mức độ khác nhau, mọi lĩnh vực, mọi doanh nghiệp, mọi cá nhân đều có thể sử dụng công nghệ số để làm tốt hơn công việc của mình, thậm chí đột phá để thay đổi về chất công việc của mình. Kinh tế số giúp tăng năng suất lao động, giúp tăng trưởng kinh tế.

Kinh tế số cũng giúp tăng trưởng bền vững, tăng trưởng bao trùm, vì sử dụng tri thức nhiều hơn là tài nguyên; chi phí tham gia kinh tế số thấp hơn nên tạo ra cơ hội kinh doanh cho nhiều người hơn; công nghệ số là không biên giới nên sẽ làm giảm khoảng cách nông thôn với thành thị. Công nghệ số cũng cho chúng ta những cách tiếp cận mới, giải pháp mới để giải quyết hiệu quả những vấn đề tồn tại lâu dài như ô nhiễm môi trường, khoảng cách giàu nghèo gia tăng, đo lường tâm trạng xã hội, sự tham gia của người dân vào hoạch định chính sách...

Phát triển kinh tế số tại Việt Nam

Ở Việt Nam, kinh tế số bắt đầu phát triển mạnh mẽ kể từ thời điểm cuối những năm 1990, khi Internet bắt đầu có mặt tại Việt Nam. Kinh tế số dần được phổ cập khi mật độ điện thoại thông minh đạt mức trên 50%, vào cuối những năm 2000, tiếp đó được thúc đẩy mạnh mẽ hơn với sự xuất hiện của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 trong những năm gần đây.

Tháng 9/2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, trong đó, nhấn mạnh yêu cầu cấp bách phải đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số. Tháng 6/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Việt Nam thuộc nhóm ít các nước trên thế giới sớm ban hành chiến lược chuyển đổi số quốc gia, chiến lược về một quốc gia số.

Những năm gần đây, kinh tế số Việt Nam đã phát triển không ngừng về cả nền tảng hạ tầng lẫn thị trường kinh doanh. Năm 2007, số người sử dụng Internet ở Việt Nam là 17,7 triệu người. Đến năm 2017, số người sử dụng Internet ở Việt Nam đã tăng lên mức 64 triệu người, xấp xỉ 67% dân số. Dựa trên số liệu của Tập đoàn Miniwatts Marketing, Việt Nam hiện xếp thứ 13 trong top 20 quốc gia có số dân sử dụng mạng Internet đông nhất thế giới.

Thương mại điện tử (TMĐT), một trong những cấu phần trọng yếu nhất của kinh tế số ở Việt Nam đã tăng trưởng vượt bậc về doanh thu và quy mô thị trường. Quy mô ngành TMĐT Việt Nam hiện ở mức 5,2 tỷ USD. Năm 2017, 21 doanh nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực TMĐT Việt Nam nhận đầu tư nước ngoài với tổng số vốn lên đến 83 triệu USD, cao nhất trong tất cả các ngành nghề nhận được huy động vốn đầu tư.

Xu hướng sáp nhập và mua lại (M&A) giữa các doanh nghiệp TMĐT tại Việt Nam cũng đã tăng trưởng đều cả ở giá trị và số lượng thuơng vụ. Đến hết năm 2021, tiếp tục có sự chuyển biến mạnh mẽ khi hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới, sáng tạo bắt đầu hình thành một cách đầy đủ. Theo đó, đã có trên 3.000 doanh nghiệp khởi nghiệp hình thành, cùng với đó có trên 40 quỹ tổ chức đầu tư mạo hiểm, mạng lưới đầu tư thiên thần.

Đặc biệt, có khoảng trên 80 công ty công nghệ tài chính (fintech) đã được thành lập tại Việt Nam, điển hình như: Công ty Cổ phần Dịch vụ Di động Trực tuyến (M_Service) – Ví điện tử MoMo; Công ty cổ phần Đổi mới công nghệ Tài chính Fiin – FIIN CREDIT; Công ty cổ phần AirPay- ShopeePay; Công ty cổ phần ZION – Ví điện tử ZaloPay; Công ty cổ phần Giải pháp Thanh toán Việt Nam (VNPAY)... Cùng với các công ty fintech, lĩnh vực vận tải cũng ra mắt nhiều ứng dụng công nghệ số - kinh tế số trong kinh doanh để cạnh tranh với Grab, Uber như FastGo, Be, VATO... Lĩnh vực du lịch, Việt Nam có các ứng dụng như: Mytour, Luxstay… cạnh tranh cùng Booking, Agoda hay AirB&B của thế giới...

Đặc biệt, các hoạt động quản lý nhà nước đã có những bước tiến mạnh mẽ, từ phương thức truyền thống sang ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển từ văn bản giấy sang môi trường số được đẩy mạnh và đạt kết quả bước đầu rất đáng trân trọng. Nhiều sản phẩm, dịch vụ thiết thực được đưa ra phục vụ

kịp thời, hiệu quả người dân, doanh nghiệp. Công tác hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, đạt kết quả tích cực, tạo môi trường pháp lý cho chuyển đổi số. Hạ tầng công nghệ thông tin, các nền tảng số tiếp tục được phát triển ở từ Trung ương đến địa phương, đáp ứng ngày càng tốt nhu cầu chuyển đổi số, tốc độ truy cập mạng băng rộng cố định tăng 32,7%, mạng di động tăng 4,7% so với cùng kỳ. Mạng truyền số liệu chuyên dùng của các cơ quan Đảng, Nhà nước kết nối 4 cấp hành chính tiếp tục được phát triển, đã kết nối đến 100% huyện, hơn 97% xã trên toàn quốc.

Tính đến hết tháng 6/2022, cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư kết nối liên thông với 11 bộ, ngành; 68 triệu thẻ căn cước gắn chíp điện tử đã được cấp; hoàn thành xác thực 45 triệu người tham gia Bảo hiểm xã hội; bước đầu thí điểm triển khai một số ứng dụng của thẻ căn cước phục vụ người dân khám chữa bệnh, rút tiền tại các cây ATM... Cơ sở dữ liệu quốc gia về bảo hiểm đã quản lý thông tin của 27 triệu hộ gia đình tham gia bảo hiểm y tế, bao gồm thông tin của 98 triệu người dân.

Dịch vụ công trực tuyến được triển khai ngày càng hiệu quả, sâu rộng. Cổng Dịch vụ công quốc gia đã cung cấp 3.699 dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4; hơn 2,1 triệu tài khoản đăng ký (tăng hơn 2,8 lần so với cùng kỳ); hơn 122,7 triệu hồ sơ đồng bộ trạng thái (tăng hơn 2 lần so với cùng kỳ); hơn 4,1 triệu hồ sơ trực tuyến thực hiện từ Cổng Dịch vụ công quốc gia (tăng hơn 3 lần so với cùng kỳ).

Tỷ trọng đóng góp của kinh tế số trong GDP tiếp tục tăng, nhiều doanh nghiệp tích cực chuyển đổi số. Tỷ trọng giá trị tăng thêm của kinh tế số trong GDP đến hết 6 tháng đầu năm 2022 ước đạt 10,41% (tỷ trọng này năm 2021 ước tính là 9,6%). Số lượng doanh nghiệp công nghệ số ước đạt 67.300 doanh nghiệp, tăng gần 3.500 doanh nghiệp so với tháng 12/2021, đạt tỷ lệ 0,69 doanh nghiệp trên 1.000 dân.

Thuế điện tử, hóa đơn điện tử được phổ cập. Tỷ lệ doanh nghiệp nộp thuế điện tử đạt 99%. Người dân tích cực sử dụng ứng dụng công nghệ thông tin, dịch vụ công quốc gia trong các hoạt động kinh tế, xã hội. Trong 6 tháng đầu năm 2022, giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt tăng khoảng 76% về số lượng và 30,6% về giá trị so với cùng kỳ 2021, trong đó mức độ tăng trưởng ấn tượng nhất là qua điện thoại di động (tăng 99,1% về số lượng và 86,1% về giá trị so với cùng kỳ năm 2021) và QRCode (tăng 68,9% về số lượng và 113,2% về giá trị).

Một số chỉ tiêu trong Kế hoạch hoạt động của Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số năm 2022 đã sớm đạt mục tiêu đề ra như tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng hóa đơn điện tử là 100%, đạt mục tiêu đề ra; tỷ trọng doanh thu thương mại điện tử trong tổng mức bán lẻ là 11,27%, vượt mục tiêu đề ra là 7%; tỷ lệ người dân từ 15 tuổi có tài khoản thanh toán là 66%, vượt mục tiêu đề ra là 65%.

Một số thách thức đặt ra

Bên cạnh những kết quả tích cực, cơ hội cho việc đẩy nhanh phát triển kinh tế số, Việt Nam cũng đang phải đối mặt với một số thách thức đặt ra cần giải quyết. Trong đó, có vấn đề nổi cộm về pháp lý, an toàn an ninh mạng, sự thiếu hụt nguồn nhân lực có chất lượng và cả việc triển khai ứng dụng công nghệ thông tin  nhằm phát triển chính phủ điện tử. Đến nay, sau hơn 10 năm triển khai Chính phủ điện tử, Việt Nam mới cơ bản hoàn thành việc kết nối, liên thông các hệ thống quản lý văn bản của các bộ, ngành, địa phương với Văn phòng Chính phủ.

Việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến tại các tỉnh còn chưa cao. Số lượng dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và mức độ 4 chưa phản ánh đúng thực trạng phát triển Chính phủ điện tử tại các tỉnh. Khoảng cách giữa các tỉnh trong việc phát triển Chính phủ điện tử hiện nay cũng là một vấn đề đáng lưu ý. Số lượng dịch vụ có phát sinh hồ sơ trực tuyến tại các tỉnh chỉ chiếm tỷ lệ ít trên tổng số dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4. Điều này dẫn đến tình trạng lượng hồ sơ giải quyết trực tuyến tại một số tỉnh còn rất thấp so với số lượng dịch vụ công trực tuyến mức 3, 4 của tỉnh.

Ngoài ra, Việt Nam còn gặp phải một thách thức lớn đến từ việc xây dựng một hệ cơ sở dữ liệu chung của quốc gia. Hiện một số bộ, ngành đã tự xây dựng cơ sở dữ liệu cho mình nhưng khả năng liên thông chúng với nhau vẫn còn hạn chế. Đây là nút thắt quan trọng cần phải giải quyết, bởi việc có được nguồn dữ liệu đầu vào tốt là nền tảng căn bản để tạo lợi thế cho các doanh nghiệp công nghệ trong nước, từ đó giúp họ có thể tìm ra lời giải cho bài toán Việt Nam và cạnh tranh sòng phẳng với các dịch vụ công nghệ xuyên biên giới.

Kinh tế số Việt Nam thời gian qua phát triển khá nhanh. Điều này là do Việt Nam có nền tảng hạ tầng Viễn thông – công nghệ thông tin khá tốt, phủ sóng rộng khắp với mật độ người sử dụng cao. Cùng với đó, người Việt Nam ham mê công nghệ, thích sử dụng công nghệ vào loại cao nhất trong khu vực, dân số Việt Nam trẻ, được đào tạo tốt... Đây là lợi thế để phát triển kinh tế số nhưng rất cần sự dẫn dắt của Chính phủ, cần có các giải pháp hữu ích để phát triển kinh tế số.

Giải pháp phát triển mạnh nền kinh tế số

Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết số 52-NQ-TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị, Chương trình chuyển đổi số quốc gia theo Quyết định 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ đều xác định chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xã hội số là trọng tâm chiến lược của nước ta giai đoạn tới. Các mục tiêu cụ thể được đặt ra đến năm 2025 là: Kinh tế số chiếm 20% GDP; tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 10%; năng suất lao động hàng năm tăng tối thiểu 7%; hạ tầng mạng băng rộng cáp quang phủ trên 80% hộ gia đình và 100% số xã; phổ cập dịch vụ mạng di động 4G/5G và điện thoại di động thông minh; tỷ lệ dân số có tài khoản thanh toán điện tử trên 50%; Việt Nam thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu về chỉ số công nghệ thông tin (IDI) và chỉ số cạnh tranh (GCI), thuộc nhóm 35 nước dẫn đầu về chỉ số đổi mới sáng tạo (GII), và thuộc nhóm 40 nước dẫn đầu về an toàn, an ninh mạng (GCI).

Để đạt được mục tiêu kinh tế số chiếm 20% theo kịch bản phát triển nhanh, Việt Nam cần duy trì mức tăng trưởng kinh tế số bình quân hàng năm khoảng 20%, gấp 3 lần tăng trưởng GDP dự kiến (6,5-7%/năm). Đây là một kịch bản không dễ dàng để thực hiện được, cùng với các mục tiêu rất cao về xã hội số, đòi hỏi sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, và sự đầu tư xứng tầm của tất cả các bộ, ngành, địa phương cho chuyển đổi số, phát triển kinh tế số.

Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, để phát triển kinh tế số theo các mục tiêu đã được định, cần tập trung vào một số nội dung sau:

Một là, hoàn thiện khung pháp lý hợp nhất về công nghệ số để quy định về mức phí tiếp cận các bộ dữ liệu khác nhau, như dữ liệu đất đai, môi trường, dữ liệu cảm biến từ xa, hoặc dữ liệu bản đồ. Trong thời đại số, thời đại mà những dữ liệu như bản đồ số và hình ảnh vệ tinh được coi như yếu tố sản xuất mới, việc đưa yếu tố sản xuất mới này vào diện bí mật là biện pháp hạn chế không cần thiết và sẽ cản trở dòng lưu chuyển dữ liệu số thông suốt giữa các cơ quan nhà nước. Điều này ảnh hưởng đến khả năng ban hành các quyết định kịp thời và có căn cứ của chính quyền các cấp, nhất là trong các lĩnh vực như đô thị hóa và ô nhiễm môi trường. Bên cạnh đó, cần triển khai thực hiện chính sách về phát triển kinh tế số quyết liệt hơn.

Hai là, cải thiện tính liên kết người tiêu dùng với internet tốc độ cao và giá cả phải chăng thông qua thúc đẩy cạnh tranh bình đẳng của hệ thống tư nhân. Tốc độ đường truyền và chất lượng các dải băng di động/cố định của Việt Nam được đánh giá là tương đối ổn định, tuy nhiên, để phát triển ở mức độ cao hơn cần có những hỗ trợ của Chính phủ trong việc nâng cao độ phủ các dải băng tần một cách đa dạng hơn nữa.

Ba là, đẩy mạnh hình thức chi trả online, đẩy nhanh tiến độ triển khai Chính phủ điện tử. Thanh toán kỹ thuật số là một phần thiết yếu và ưu tiên hàng đầu của nền kinh tế số. Việt Nam đang gặp thách thức lớn khi lượng sử dụng tiền mặt trên thị trường vẫn chiếm hơn 90%. Để đánh giá chỉ số này, Global Findex có thể là một chỉ báo quan trọng trong thời gian tới. Cùng với đó, Chính phủ cần đi đầu trong công cuộc chuyển đổi số. Sự tích cực dẫn dắt nền kinh tế chuyển đổi số của Chính phủ sẽ là chìa khóa quan trọng cho sự thành công của công cuộc này.

Bốn là, cải thiện hệ thống logistics, đặc biệt trong liên kết kết cấu hạ tầng ngành và liên ngành nhằm tăng khả năng đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng. Chỉ số Hiệu suất logistics có thể sẽ là một trong những chỉ báo quan trọng cho mục tiêu này.

Năm là, đầu tư cho công nghệ thông tin, kinh tế số, nhất là hạ tầng kỹ thuật số, chuyển đổi số, kết nối thông minh, xây dựng cổng thông tin; đào tạo, đãi ngộ cán bộ công nghệ thông tin... Đầu tư từ nhiều nguồn, bao gồm nguồn ngân sách nhà nước, nguồn từ dân doanh, nguồn đầu tư nước ngoài.

Sáu là, nâng cao trình độ quản lý kinh tế trong điều kiện kinh tế số. Cần mở rộng tuyên truyền về vai trò, tác động tích cực của kinh tế số. Nếu công nghệ thông tin là động lực của kinh tế số thì giáo dục - đào tạo là chìa khóa của công nghệ thông tin. Cùng với phát triển công nghệ thông tin, kinh tế số cần chú trọng công tác bảo vệ an ninh kinh tế, an ninh thông tin, an ninh chính trị, văn hóa, quốc gia, an ninh mạng, không gian mạng; giám sát, phòng chống tội phạm công nghệ cao ở tất cả các ngành, các cấp, nhất là tài chính, tiền tệ, các cơ quan chính phủ được số hóa...

Việt Nam đã có những thành công bước đầu trong phát triển kinh tế số, tuy nhiên, để phát triển mạnh mẽ hơn nữa kinh tế số trong điều kiện nguồn lực có hạn, đòi hỏi cần xác định rõ những ưu tiên phối hợp với thực tiễn hiện nay. Việt Nam cần tận dụng được những cơ hội của hội nhập quốc tế, đặc biệt là những FTA thế hệ mới mà Việt Nam đã ký kết như Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) và Hiệp định Bảo hộ đầu tư (EVIPA).

Đồng thời, tập trung phát triển mạnh những lĩnh vực nền tảng của kinh tế số như hạ tầng số, tài nguyên số, dịch vụ số, thị trường số và có chiến lược bài bản để tiếp cận, làm chủ những công nghệ quan trọng, cốt lõi của kinh tế số thông qua các chính sách hỗ trợ, hợp tác và thu hút đầu tư.

Nguôn: skhcn.thuathienhue.gov.vn
Các tin khác
Xem tin theo ngày  
Thống kê truy cập
Truy cập tổng 3.805.160
Truy cập hiện tại 2.028